Tổng hợp 50 bài văn nghị luận phân tích một tác..

Viết bài văn nghị luận phân tích bài thơ Nỗi niềm chinh phụ lớp 9


Trong văn học Việt Nam, nỗi sầu chia li là một chủ đề quen thuộc, được nhiều tác giả thể hiện sâu sắc. Nếu Nguyễn Dữ viết về nỗi mong nhớ của người vợ chờ chồng trong Người con gái Nam Xương, Nguyễn Du khắc họa nỗi ly biệt đầy bi thương của đôi vợ chồng trẻ trong Truyện Kiều, thì Chinh phụ ngâm khúc lại đưa nỗi sầu ấy lên đến tột cùng.

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý

1. Mở bài: Giới thiệu bài thơ được viết theo thể song thất lục bát mà em muốn phân tích: Nỗi niềm chinh phụ của Đặng Trần Côn

2. Thân bài:

a) Phân tích 12 câu thơ đầu: Nỗi niềm người chinh phụ khi vừa chia xa người chinh phu

Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
Hà lương chia rẽ đường này
Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi.

Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu,
Kị sau còn khuất nẻo Tràng Dương.
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng.

Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,
Hàng cờ bay trong bóng phất phơ.
Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.

- Khung cảnh diễn ra cuộc tiễn biệt người chồng ra chiến trận:

+ Địa điểm: người vợ đứng trên một cây cầu bắc ngang dòng sông

+ Âm thanh: tiếng nhạc ngựa, tiếng trống - báo hiệu đoàn quân chuẩn bị xuất binh, sắp rời đi

+ Hình ảnh: bóng cờ bay (cờ của quân đội),

→ Tiểu kết:

+ Hai vợ chồng trẻ vừa kết hôn đã phải chia xa, để chồng đến nơi chiến tranh nguy hiểm nên vô cùng bịn rịn, lưu luyến

+ Người vợ đứng yên nhìn chồng rời đi càng lúc càng xa, cho đến khi không thể nhìn thấy bóng chồng trong sự cô đơn, buồn bã, lo lắng, sầu não trăm bề

- Cảm xúc của người chinh phụ khi tiễn biệt chồng:

+ “đoạn trường”: chỉ nỗi đau đớn, xót xa vô cùng của người vợ khi tiễn chồng ra chiến trận, không rõ an nguy, ngày trở về

+ “ngẩn ngơ”: người vợ không còn tâm trí suy nghĩ cho bản thân, thẫn thờ vì chỉ nghĩ về chồng ở phương xa

→ Tiểu kết: Người chinh phụ tiễn chồng với những cung bậc cảm xúc:

+ Lưu luyến, quyến luyến những giây phút cuối cùng bên chồng trước khi chồng đi xa, không biết ngày trở về

+ Sự cô đơn, trống trải, vắng vẻ trong tâm hồn khi từ nay phải một mình ở nhà chờ chồng trong vô vọng

+ Buồn lo, sầu muộn về tương lai mờ mịt phía trước, về sự an nguy của người chồng khi anh đến nơi chiến trận

b) Phân tích 12 câu thơ cuối: Nỗi niềm người chinh phụ khi một mình ở nhà sau khi chồng đi xa

Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.
Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

- Biện pháp Đối:

+ đi >< về: Khắc họa sự trái ngược về hướng đi của hai vợ chồng, từ đó nhấn mạnh sự xa cách về địa lý của người vợ và người chồng càng ngày càng lớn dần

+ cõi xa >< buồng cũ: Tô đậm sự cô đơn, trống vắng của người vợ khi chồng ở nơi xa, còn bản thân trở về chốn cũ

+ mây biếc >< núi xanh: Hai địa điểm đối lập về vị trí: trên cao tít (mây biếc) và ở dưới mặt đất (núi xanh) tạo nên khoảng không gian xa cách rộng lớn vô cùng tận giữa trời và đất, khắc họa khoảng cách xa vời giữa hai vợ chồng

+ ngoảnh lại >< trông sang: Hai hành động đối lập nhau bởi thực hiện ở hai vị trí cách nhau rất xa, từ đó nhấn mạnh hành động quay người lại, hướng về nhau, ngóng trông nhau của hai vợ chồng

+ lòng chàng >< ý thiếp: Khắc họa sự quyến luyến, bịn rịn và tình cảm sâu nặng của hai vợ chồng dành cho nhau trước cảnh chia li, từ đó tô đậm hơn bi kịch của đôi vợ chồng trẻ

- Biện pháp tu từ ẩn dụ (hình ảnh "xanh xanh những mấy ngàn dâu", "ngàn dâu xanh ngắt")

+ Hình ảnh tả thực khung cảnh thiên nhiên nơi người vợ tiễn chồng đi chinh chiến

+ Hình ảnh dậm tính tượng trưng vì "ngàn dâu xanh" là một hình ảnh ước lệ:

+ Gợi liên tưởng tới hình ảnh "ngàn dâu bên đường" trong "Mạch thượng tang": lúc đầu ngàn dâu xanh chỉ ước muốn của người phụ nữ về người chồng tài năng và thành đạt, nhưng chính nó lại trở thành thứ khiến vợ chồng phải xa cách nhau. Từ đó, hình ảnh "ngàn dâu xanh" khắc họa cho tâm trạng đầy mâu thuẫn và cảnh ngộ trớ trêu của người chinh phụ (người chồng ra trận nếu lập công sẽ đem về vinh hoa phú quý, nhưng cũng khiến vợ chồng xa cách)

+ Gợi liên tưởng tới thành ngữ "thương hải tang điền" (biển xanh hóa thành nương dâu": ở đây "ngàn dâu" tượng trưng cho sự thay đổi, biến cố lớn của cuộc đời, đến mức chẳng còn gì giống với trước đây nữa. Từ đó giúp đẩy đến cao độ nỗi buồn khổ của người chinh phụ khi nghĩ về tương lai phía trước (sợ chồng không thể trở về đoàn tụ)

- Biện pháp Điệp:

+ Điệp từ cùng, thấy, ngàn dâu, ai: Khắc họa sự đồng điệu trong cảm xúc, suy nghĩ của hai vợ chồng, cho thấy tâm trí của cả hai người vẫn đang hướng về nhau với tình yêu thương sâu đậm và nỗi nhớ da diết

+ Điệp vòng: ngàn dâu (xuất hiện ở cuối câu 7 chữ và đầu câu 6 chữ tiếp theo): tạo vòng lặp kéo dài mãi của hình ảnh ngàn dâu, giúp kéo dài và mở rộng không gian, khắc họa sự mênh mông ngăn cách giữa hai vợ chồng

→ Tiểu kết: Tác giả sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ, kết hợp với bút pháp tả cảnh ngụ tình để khắc họa nỗi buồn lo, cô đơn, sợ hãi về tương lai phía trước của người chinh phụ khi một mình ở nhà chờ chồng ra chiến trận

3. Kết bài:

- Khái quát một số nét đặc sắc về nghệ thuật, nội dung của bài thơ Nỗi niềm chinh phụ

- Liên hệ mở rộng tới hình ảnh người chinh phụ trong những tác phẩm khác mà em biết (nàng Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”)

Bài siêu ngắn Mẫu 1

Trong văn học Việt Nam, nỗi sầu chia li là một chủ đề quen thuộc, được nhiều tác giả thể hiện sâu sắc. Nếu Nguyễn Dữ viết về nỗi mong nhớ của người vợ chờ chồng trong Người con gái Nam Xương, Nguyễn Du khắc họa nỗi ly biệt đầy bi thương của đôi vợ chồng trẻ trong Truyện Kiều, thì Chinh phụ ngâm khúc lại đưa nỗi sầu ấy lên đến tột cùng. Sau phút chia li, người chinh phụ trở về trong cô đơn, còn chồng ra đi nơi “cõi xa mưa gió”. Không gian “tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh” như phủ đầy cách trở. Từ “cách ngăn” đến “mấy trùng” là sự xa cách càng lúc càng lớn, tượng trưng cho nỗi nhớ thương chồng chất trong lòng người vợ trẻ. Những địa danh Hàm Dương – Tiêu Tương chỉ là ước lệ, nhưng lại gợi nên nỗi biệt li thăm thẳm. Đến khi “cùng trông lại mà cùng chẳng thấy”, nỗi sầu chia li đã hóa thành vô hạn, tràn ngập cả không gian và tâm hồn. Qua đó, tác phẩm thể hiện niềm thương cảm sâu sắc cho thân phận người phụ nữ, đồng thời ca ngợi tình yêu thủy chung son sắt của họ.

Bài siêu ngắn Mẫu 2

Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh, không có quyền quyết định cuộc đời mình. Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn (Đoàn Thị Điểm dịch) đã thể hiện sâu sắc nỗi đau ấy qua đoạn trích “Sau phút chia ly”. Người vợ tiễn chồng ra trận, một mình trở về với nỗi cô đơn, nhớ thương da diết. Những câu thơ:

“Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn”

đã gợi rõ sự chia xa đầy buồn tủi. Cảnh vật “mây biếc”, “núi xanh” như hòa cùng tâm trạng u sầu của người chinh phụ. Các điển tích Hàm Dương, Tiêu Tương, phép đối và điệp từ “xanh xanh”, “xanh ngắt” được sử dụng tinh tế để diễn tả sự xa cách ngày một lớn, nỗi sầu thương ngày càng sâu. Thể thơ song thất lục bát nhịp nhàng, tha thiết càng làm nổi bật tiếng lòng nhớ thương, khát vọng đoàn tụ và hòa bình. Đoạn trích không chỉ bộc lộ nỗi đau của người phụ nữ có chồng ra trận mà còn thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, lên án chiến tranh phi nghĩa và khẳng định khát vọng hạnh phúc, yêu thương của con người.

Bài siêu ngắn Mẫu 3

Trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người phụ nữ luôn được nhiều tác giả quan tâm, phản ánh nỗi bất hạnh và khát vọng hạnh phúc của họ. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (bản dịch Đoàn Thị Điểm) là tác phẩm tiêu biểu, đặc biệt qua đoạn trích “Nỗi niềm chinh phụ”, thể hiện nỗi cô đơn, nhớ thương của người vợ có chồng ra trận. Ngay từ bốn câu đầu, cảnh chia ly hiện ra đầy xót xa: “Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay / Bên đường trông bóng cờ bay ngùi ngùi.” Người vợ chưa kịp hưởng hạnh phúc đã phải tiễn chồng đi trong tiếng trống giục quân dồn dập. Càng về sau, nỗi nhớ càng sâu nặng: “Chàng thì đi cõi xa mưa gió / Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.” Khoảng cách địa lý được đẩy lên cực độ qua hình ảnh ước lệ “Hàm Dương – Tiêu Tương”, diễn tả sự xa cách cả về không gian lẫn tâm hồn. Bằng thể song thất lục bát giàu nhạc điệu, ngôn ngữ trang nhã và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tinh tế, đoạn trích đã khắc họa nỗi buồn chia ly da diết, qua đó thể hiện tiếng nói nhân đạo, cảm thương cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Bài tham khảo Mẫu 1

Trong văn học Việt Nam, nỗi sầu chia li đã được nhiều tác giả quan tâm và phản ánh. Nguyễn Dữ có những dòng về sự ngóng trông của người vợ có chồng đi chinh chiến: Ngày qua tháng lại, thoát đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn ngoài vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không sao ngăn được. (Người con gái Nam Xương).

Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã viết rất cảm động về sự chia tay đau buồn của đôi vợ chồng trẻ:

Người lên ngựa, kẻ chia bào

Dừng phong thu đã nhuốm màu quan san

Người về chiếc bóng năm canh

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

(Truyện Kiều)

Nhưng có lẽ, chưa có nỗi sầu nào bi thương bằng nỗi sầu chia li của người chinh phụ được diễn tả trong Chinh phụ ngâm khúc.

Chinh phụ ngâm khúc là một sáng tác văn chương xuất hiện vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Cả khúc ngâm là nỗi sầu nhớ thương vời vợi của người vợ có chồng ra trận. Nỗi sầu ấy đậm đặc ngay từ sau phút chia li:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bên Tiêu Tương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngất một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Người chồng chia tay vợ lên đường chinh chiến (một cuộc chinh chiến vô nghĩa đối với họ), người vợ trở về một mình trong cô đơn, buồn tủi:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.

Chao ôi, có sự chia tay nào xót thương hơn thế, có sự ngăn cách nào khắc nghiệt hơn thế. Cả một nỗi sầu chia li nặng nề đă phủ lên khí trời, sắc núi:

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.

Sự đoái trông của người vợ trẻ thật tội nghiệp. Nàng muốn níu giữ lại mà hình bóng người chồng cứ xa dần, để rồi chỉ còn lại là không gian xa thẳm. Giữa khung cảnh tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh, người vợ càng trở nên lẻ loi, cô quạnh. Sự chia li từ chỗ mới chỉ là cách ngăn, chẳng mấy chốc đã tăng lên nhanh chóng cả về không gian và tâm trạng:

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.

Từ câu Chàng thì đi cõi xa - Thiếp thì về buồng cũ đến Chốn Hàm Dương - Bến Tiêu Tương rồi lại Khói Tiêu Tương - Cây Hàm Dương, thì sự ngăn cách đã lên đến mấy trùng, như mấy trùng nỗi nhớ thương sầu muộn trong lòng người chinh phụ.

Đối với bất kì ai, khi người thân của mình phải đi vào chốn cõi xa mưa gió (chốn binh đao khói lửa, nơi chiến trận thảm khốc), cũng đều có tâm trạng buồn đau thương nhớ. Ở người chinh phụ, nỗi buồn đau sầu muộn ấy còn thêm bội phần bởi cái tình chồng vợ đương độ đằm thắm gắn bó thiết tha (còn ngoảnh lại - hãy trông sang). Gắn bó mà không được gắn bó, gắn bó mà phải chia li. Thực là oái oăm và nghịch chướng. Thực là thương tâm và đau xót bởi cái cảnh người thì tận chốn Hàm Dương, kẻ thì mãi Bến Tiêu Tương.

Cái tên Hàm Dương - Tiêu Tương (dù là được dùng theo bút pháp ước lệ của văn chương cổ điển) vẫn còn là những địa danh để người vợ có ý niệm về độ xa cách, nhưng đến bốn câu thơ tiếp theo thì cả ý niệm ấy cũng không còn, sự xa cách đã đến cực độ:

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Trong cảnh trời cao đất rộng, thăm thẳm mênh mông đến khôn cùng, nỗi sầu chia li của người vợ đã trở thành khối sầu, núi sầu chất chồng, đè nặng cả trái tim và tâm hồn nàng, để rồi sau đó sẽ theo nàng về chốn buồng cũ, đè nặng lên cuộc sống mòn mỏi ngóng trông đến hóa đá của nàng.

Tình cảm vợ chồng và nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi của người vợ trẻ thật mãnh liệt, nó làm lay động tâm thức bao thế hệ bạn đọc. Chỉ có tấm lòng đầy ắp tình yêu thương của nhà thơ mới có thể chia sẻ và diễn tả một cách xúc động đến thế.

Bài tham khảo Mẫu 2

Trong xã hội phong kiến người phụ nữ phải chịu rất nhiều bất hạnh, khổ cực. Người phụ nữ lúc bấy giờ chưa được xã hội công nhận, họ không có quyền quyết định cuộc đời mình, phải phụ thuộc vào người chồng, người cha. Có rất nhiều tác phẩm nói về số phận người phụ nữ trong giai đoạn nay, trong đó phải kể đến đoạn trích Sau phút chia ly trích trong tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn.

Đoạn trích bày tỏ nỗi lòng sầu thương, nhớ nhung với sự mong mỏi, da diết của người vợ có chồng ra trận. Bài thơ với thể thơ cổ song thất lục bát. Toàn bài là nỗi nhớ thương ngày một tăng tiến, nâng cao của đôi vợ chồng trẻ, đặc biệt là người vợ - một phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Văn bản "Nỗi niềm chinh phụ" là đoạn trích sau khi người vợ ngậm ngùi tiễn chồng ra miền biên ải, nàng trở về đơn chiếc xót xa.

"Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh".
Rồi lại:
"Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai".

Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối giữa các câu thất và sử dụng điệp từ ngữ với những tính từ miêu tả độc đáo, đặc sắc đã toát lên nội dung chính là lên án chiến tranh, đặc biệt là khát vọng hòa bình, được yêu thương của người phụ nữ thời phong kiến.

"Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn".

Vì điều kiện đất nước xảy ra chiến tranh người chồng đã phải chia tay người vợ trẻ yêu quý của mình để ra chiến trường. Đó là cuộc chia li buồn và cô đơn của cả hai người. Trong "cõi xa mưa gió" của chàng ẩn chứa bao hiểm nguy, gian nan của hòn tên mũi đạn, của đời sống chốn sa trường. Trong nỗi lòng "buồn cũ chiếu chăn" của thiếp lại đau đớn bao đơn côi phiền muộn, bao khắc khoải đợi chờ. Hai cặp đối "Chàng thì" - "Thiếp thì" ẩn chứa bao chán nản, buồn phiền. Nghĩ đến nhau, họ chỉ còn biết:

"Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh".

Khi đã tiễn chồng ra trận, người vợ quay trở về chỉ biết chôn chặt nỗi buồn trong loàng. "Đoái" nghĩa là ngoảnh lại, ngoái lại nhưng dùng từ "đoái" còn hàm ẩn được cái đau đớn, mệt mỏi của tâm trạng người vợ. Nhưng càng đoái theo trông ngóng chỉ càng thấy cách xa nghìn trùng, giữa họ "đã cách ngăn" "mây biếc" "núi xanh" "tuôn màu" "trải ngàn" cách trở. Nỗi buồn của người phụ nữ như đã âm thầm lan thấm vào thiên nhiên cảnh vật. Đoàn Thị Điểm đã dùng cảnh vật thiên nhiên để nói lên tâm trạng người phụ nữ khi xa chồng:

"Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu".

Trong đoạn thơ tiếp, nỗi sầu chia li và lưu luyến chẳng muốn rời của đôi vợ chồng trẻ đã được thể hiện bằng những điển tích cổ, thủ pháp đối, phép điệp ngữ rất độc đáo.

Những địa danh Tiêu Tương, Hàm Dương tác giả mượn trong điển tích Trung Quốc gợi đến sự cách xa, chia lìa: "cách... mấy trùng". Phép đối vừa thể hiện tấm lòng sâu nặng dành cho nhau của đôi vợ chồng người chinh phụ vừa như thể hiện sự rời xa nhau từng giờ từng khắc của họ: "Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại" - "Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang", "Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương" - "Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương". Đặc biệt, phép điệp ngữ khiến những câu chữ như muốn đan quyện vào nhau chẳng muốn rời: Tiêu Tương - Tiêu Tương, Hàm Dương - Hàm Dương, thấy - thấy, xanh xanh - xanh, ngàn dâu - ngàn dâu. Nét đặc sắc đó đã thể hiện thành công tấm lòng lưu luyến chẳng muốn rời xa nhau của hai vợ chồng nàng. Thể thơ song thất lục bát thiết tha đã góp phần thể hiện tâm trạng u sầu nhung nhớ khôn nguôi trong lòng người chinh phụ. Nhưng dầu thế, đất trời như đang đẩy họ xa nhau hơn. Trong hai câu thơ:

"Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu"

Tác giả đã mượn ý câu thành ngữ "Thương hải tang điền" - biển rộng đã biến thành ruộng dâu tít tắp, ý chỉ những dâu bể cuộc đời. Chẳng những vậy, những sắc thái khác nhau của màu xanh được sử dụng trong hai câu thơ này cũng góp phần diễn tả sâu sắc nỗi lòng người chinh phụ. "Xanh xanh" là màu xanh nhẹ, xanh nhạt. "Xanh ngắt" lại là màu xanh đậm. Từ "xanh xanh" đến "xanh ngắt" là sự tăng tiến, màu xanh thể hiện sự chia li, li biệt; sự tăng tiến đó như thể hiện nỗi buồn ngày càng đậm nét, ngày càng quằn quại xót xa.

Đoạn trích đã sử dụng thể thơ song thất lục bát ngắn ngủi cùng khá nhiều những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng thành công, tác giả đã thể hiện sâu sắc nỗi lòng của người vợ "sau phút chia li" tiễn chồng đi chinh chiến. Đó là nỗi buồn tê tái, nỗi nhung nhớ vơi đầy, sự lưu luyến khôn nguôi... Và như thế, văn bản "Nỗi niềm chinh phụ" (trích "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm) đã thể hiện tinh thần nhân đạo rất nhân bản, nhân văn.

Người phụ nữ trong xã hội cũ phải chịu quá nhiều đắng cay tủi nhục, chỉ có người chồng là chỗ dựa tinh thần rồi cũng phải ra đi, chưa biết khi nà o mới gặp lại. Sự ác liệt của chiến tranh làm cho nỗi nhớ chồng của người phụ nữ càng nhân ên gấp bội, bởi giữa cái sông và cái chết của con người trong hoàn cảnh đó là quá mong manh.

Bài tham khảo Mẫu 3

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, đề tài về người phụ nữ luôn là đề tài được rất nhiều những cây bút lớn lựa chọn, gửi gắm. Những tác phẩm ấy không chỉ là lời phản ánh với xã hội phong kiến đầy rẫy bất công hay tôn vinh những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ mà còn là nỗi niềm khát khao được hạnh phúc của họ. Có rất nhiều những tác phẩm văn thơ nói về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nhưng nếu không nhắc đến tác phẩm "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn với đoạn trích "Nỗi niềm chinh phụ" do Đoàn Thị Điểm dịch lại thì quả là một thiếu xót to lớn.

             Trước hết, về tác giả Đặng Trần Côn, ông là người làng Nhân Mục, nay thuộc Hà Nội; ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ 18. Ông là người đỗ đạt, đã làm quan đến chức Ngự sử đài chiếu khám. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà rất nhiều những tác phẩm có giá trị, trong đó phải kể đến tác phẩm "Chinh phụ ngâm" và đoạn trích "Nỗi niềm chinh phụ" là một phần trong đó. Đoạn trích gồm 21 câu thơ, từ câu 41 đến 64 của tác phẩm. Đoạn trích là nỗi sầu thương, cô đơn, nhớ nhung của người phụ nữ trong cảnh chờ chồng ra trận.

             Bốn câu thơ đầu của đoạn trích là cảnh chia tay và nỗi đau đớn của người phụ nữ khi tiễn chồng ra trận:

"Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống

Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay

Hà lương chia rẽ từng ngày

Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi."

Đoạn thơ mở ra bằng âm thanh của chiến trận với "tiếng nhạc ngựa" xen với "tiếng trống". Âm thanh ấy mở ra khung cảnh gấp gáp, khẩn trương của chiến tranh. Không khí ấy còn khẩn trương tới nỗi át đi tiếng lòng của người vợ rằng dù mới chỉ giáp mặt đã phải chia ly. Tưởng chừng như đã có hạnh phúc nhưng hạnh phúc ấy lại ngắn ngủi đến nỗi không kịp nói lời từ biệt. Hình ảnh "hà lương chia rẽ từng ngày" tượng trưng cho sự tan vỡ của hạnh phúc chỉ còn được tính theo ngày. Đến ngày tiễn chồng, người vợ chỉ có thể ngậm ngùi gửi gắm niềm thương nỗi nhớ vào trong lá cờ. 

            Khổ thơ trước đã miêu tả về cảnh chia tay thì ở bốn câu thơ tiếp theo là cảnh người vợ tiễn chồng ra trận:

"Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu

Kị sau còn khuất nẻo Tràng Dương

Quân đưa chàng ruổi lên đường

Liễu dương biết thiếp đoạn đường này chăng"

Hai địa danh "doanh Liễu", "Tràng Dương" cho thấy người chồng đang ngày một xa dần trước mắt vợ. Và hình ảnh tương phản "quân trước" >< "kị sau" diễn tả sự gấp gáp của đoàn quân trên đường ra trận. Điều này cũng nhấn mạnh nỗi trống vắng của người vợ đang tăng dần bởi đoàn quân đã đưa chồng của nàng lên đường ra chiến trận. Thế rồi, chỉ còn lại nàng trên đoạn trường này. Nỗi đau đớn, trống vắng của người vợ dường như cũng được cả gió liễu cảm thông. 

             Và những câu tiếp theo là nỗi nhớ nhung vô bờ của người ở với người đi (người chinh phụ với người chinh phu):

"Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng

Hàng cờ bay trong bóng phất phơ

Dấu chàng theo lớp mây đưa, 

Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.

Chàng thì đi cõi xa mưa gió

Thiếp thì về buồng cũ gối chăn

Đoái trông theo đã cách ngăn

Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại

Bến Tiêu Dương thiếp hãy trông sang

Khói Tiêu Dương cách Hàm Dương

Cây Hàm Dương cách Tiêu Dương mấy trùng."

Trong lòng người vợ vẫn còn dư âm của đoàn quân với tiếng địch cùng hàng cờ bay phất phơ. Dù cảm thấy chồng ở gần nhưng thực tế chàng đã ở rất xa, dấu chân chàng dần biến mất theo sau lớp mây mù. Hình ảnh là sự tượng trưng cho khoảng cách đang ngày càng xa của đôi vợ chồng. Khoảng cách ấy quá dài, đã không thể vượt qua khiến người chinh phụ chỉ còn biết ngẩn ngơ ngồi nhìn rặng núi và lo cho chồng, cho nước nhà. Bằng nghệ thuật đối lập − song hành giữa người đi và kẻ ở, thể hiện qua những hình ảnh như: "chàng đi" >< "thiếp về"; "cõi xa mưa gió" >< "buông cũ gối chăn". Qua đó cho thấy nỗi đau không chỉ về không gian mà còn cả tâm hồn. Và cả thiên nhiên cũng đau buồn theo nỗi buồn của người chinh phụ. Như đã nói bên trên, hai hình ảnh Hàm Dương và Tiêu Dương là biểu tượng cho khoảng cách xa vời vợi. Người chinh phụ nhớ người chinh phu và người chinh phu cũng vậy bởi "chàng" thì "ngoảnh lại" còn "thiếp" thì "trông sang". Hai hành động ấy là sự tương xứng cho thấy nỗi nhớ của cả hai dành cho đối phương vô cùng to lớn nhưng lại chẳng thể gặp được nhau, chỉ còn lại nỗi nhớ giao thoa với nhau. Nỗi nhớ thương ấy kéo dài, vô vọng, mờ ảo và vô cùng xa xôi, được thể hiện qua hình ảnh "khói Tiêu Dương" cách "cây Hàm Dương" mấy trùng. 

            Bài thơ với thể thơ song thất lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển cùng những hình ảnh giàu tính biểu cảm và ngôn ngữ trang nhã kết hợp với biện pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa đã cho người đọc thấy được bức tranh tâm trạng của người vợ trẻ có chồng phải ra đi vì chiến tranh. Qua từng lời thơ, ta cảm nhận được khát vọng được đoàn tụ, được hạnh phúc của những người phụ nữ trẻ trong xã hội phong kiến xưa nhưng đổi lại chỉ là sự trống vắng, hiu quạnh.


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 9 - Kết nối tri thức - Xem ngay

Tham Gia Group Dành Cho Lớp 9 - Ôn Thi Vào Lớp 10 Miễn Phí