Em hãy viết bài văn nghị luận phân tích bài thơ " Quê mình" của Nguyễn Thế Kỷ lớp 9>
Bài thơ Quê mình của Nguyễn Thế Kỷ là một khúc ca quê hương đậm chất trữ tình, gợi lên tình yêu tha thiết, sâu đậm với mảnh đất quê nhà. Với ngôn từ mộc mạc, hình ảnh gần gũi, bài thơ đã chạm đến trái tim người đọc, khơi dậy niềm tự hào về quê hương trong mỗi con người.
Tổng hợp đề thi học kì 2 lớp 9 tất cả các môn - Kết nối tri thức
Toán - Văn - Anh - KHTN - Lịch sử và Địa lí
Dàn ý
I. Mở bài: Giới thiệu khái quát vấn đề nghị luận: tác phẩm Quê mình – Nguyễn Thế Kỉ
II. Thân bài:
- Chủ đề của bài thơ là tình yêu quê hương, sự biết ơn đối với gia đình và cội nguồn. Các căn cứ xác định chủ đề này bao gồm: hình ảnh thiên nhiên quê hương (hoa gạo, sông Dinh, núi Gấm), tình cảm gắn bó với cha mẹ, tổ tiên, sự hi sinh của ông bà và sự tự hào về những giá trị đã được truyền lại từ thế hệ trước
- Đề tài: Bài thơ viết về tình yêu quê hương và nỗi nhớ về quê hương của tác giả, qua đó thể hiện sự trân trọng, yêu quý và tự hào về cội nguồn, mảnh đất nơi đã sinh ra mình
- Quê hương hiện lên vô cùng bình dị, thân thương:
+ Hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam: “con đường đất đỏ”, “cây đa cổ thụ”, “giếng nước trong veo”, “bóng tre xanh mát”
→ Những hình ảnh quen thuộc, giản dị ấy đã gợi lên một khung cảnh làng quê thanh bình, yên ả
+ Hình ảnh “con đường đất đỏ” dẫn lối về quê hương, “cây đa cổ thụ” như người chứng kiến bao thăng trầm của thời gian, “giếng nước trong veo” là nguồn nước mát lành nuôi dưỡng bao thế hệ, “bóng tre xanh mát” che chở cho làng quê. Tất cả đều là những hình ảnh thân thuộc, gần gũi, gợi lên một cảm giác ấm áo, bình yên.
- Tình yêu quê hương tha thiết, sâu lắng của tác giả gửi gắm qua từng câu thơ:
+ In đậm strong tác giả là hình ảnh thân thuộc, gần gũi ấm áp tình người nơi làng quê
+ Tình yêu đó được bộc lộ trực tiếp qua những câu thơ đầy cảm xúc: “Quê mình, nơi chôn rau cắt rốn/ Nơi tuổi thơ êm đềm/ Nơi tiếng cười vang vọng/ Nơi giấc mơ êm đềm”. Những câu thơ ấy như lời tự sự, bộc lộ nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả. Quê hương là nơi chôn rau cắt rốn, là nơi lưu giữ những kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ, là nơi tiếng cười vang vọng, là nơi giấc mơ êm đềm
→ Tình yêu quê hương của tác giả thật sâu sắc, tha thiết. Nó đã trở thành một phần máu thịt, không thể tách rời
- Qua tình yêu với quê hương, tác giả đã gửi gắm thông điệp, lời nhắn gửi về trách nhiệm với quê hương
- Kết thúc bài thơ, tác giả gửi gắm lời nhắn nhủ: “Hãy giữ gìn quê hương/ Cho mai sau mãi đẹp/ Cho con cháu đời đời/ Được sống trong thanh bình”. Lời nhắn nhủ ấy như một lời khẳng định trách nhiệm của một người đối với quê hương. Chúng ta phải biết giữ gìn, bảo vệ quê hương để mai sau quê hương vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ, để con cháu đời đời được sống trong thanh bình, hạnh phúc
- Đặc sắc nghệ thuật:
+ Thể thơ tự do, gieo vần, ngắt nhịp linh hoạt dễ dàng thể hiện cảm xúc của tác giả
+ Hình ảnh thơ giản dị, gần gũi, thân thuộc
+ Ngôn từ dung dị, dễ hiểu
+ Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ
III. Kết bài: Tổng kết vấn đề nghị luận
Bài siêu ngắn Mẫu 1
Bài thơ Quê mình của Nguyễn Thế Kỷ là một khúc ca quê hương đậm chất trữ tình, gợi lên tình yêu tha thiết, sâu đậm với mảnh đất quê nhà. Với ngôn từ mộc mạc, hình ảnh gần gũi, bài thơ đã chạm đến trái tim người đọc, khơi dậy niềm tự hào về quê hương trong mỗi con người.
Bài thơ mở ra một khung cảnh quê hương bình dị, quen thuộc qua hành trình người cha đưa con về thăm quê. Hình ảnh “ao làng”, “sen thơm”, “hoa gạo”, “sân đình” là những nét đặc trưng của làng quê Việt Nam, gợi lên một không gian yên bình, thân thuộc. Từ “thơm mãi” không chỉ nói về hương sen mà còn gợi lên ký ức bền vững, trường tồn trong tâm hồn người cha.
Khổ thơ thứ hai khắc họa tình yêu quê hương sâu sắc, như một phần không thể tách rời trong tâm hồn người cha. Tác giả sử dụng những địa danh cụ thể như “sông Dinh”, “núi Gấm” để làm nổi bật nét đặc trưng của quê hương. Dù đi đâu, tâm hồn người cha vẫn hướng về quê nhà. Hình ảnh “hạt giống đồng chiêm gieo vào tâm khảm” mang ý nghĩa sâu sắc, gợi lên giá trị lao động, sự gắn bó với đất đai, đồng thời là biểu tượng của truyền thống văn hóa, tinh thần quê hương được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Khổ thơ thứ ba là lời nhắn nhủ chân thành của người cha với con, khẳng định giá trị vô giá của quê hương. Người cha chỉ ra rằng quê hương không chỉ là cảnh sắc, mà còn là những giá trị tinh thần, những ân tình sâu nặng. Với người cha, những giá trị ấy quý hơn “bạc vàng”, bởi đó là cội rễ, là nguồn nuôi dưỡng cả thể chất lẫn tâm hồn con người.
Cuối cùng, tác giả nhấn mạnh vai trò của quê hương trong việc nâng đỡ, chở che và tiếp nối các thế hệ. Hình ảnh “ông bà dắt con sang” gợi lên sự dẫn dắt, truyền dạy của các thế hệ trước. “Dòng đục dòng trong, câu thương câu giận” là những giá trị đạo đức, tình cảm gia đình và quê hương. Hình ảnh “cụ đồ xưa” với “bút nghiên lận đận” và “lội ruộng vinh quy” là biểu tượng của truyền thống hiếu học, ý chí vượt khó và sự gắn bó với quê hương. Dù thành công, người xưa vẫn không quên nguồn cội, vẫn trở về với ruộng đồng – nơi khởi nguồn của mọi giá trị. Quê hương được ví như mảnh đất nâng đỡ, chở che cho người cha, để rồi hôm nay con lại trở về, tiếp nối hành trình của cha.
Quê mình của Nguyễn Thế Kỷ là một bài ca quê hương đậm đà tình yêu và lòng biết ơn. Qua lời tâm tình của người cha, bài thơ không chỉ khắc họa vẻ đẹp quê hương mà còn gửi gắm thông điệp về giá trị của cội nguồn, truyền thống và trách nhiệm của mỗi người trong việc giữ gìn, tiếp nối mạch nguồn quê hương.
Bài siêu ngắn Mẫu 2
Bài thơ Quê mình của Nguyễn Thế Kỷ là một khúc ca trữ tình đậm chất quê hương, thể hiện tình yêu sâu đậm với mảnh đất quê nhà qua lời tâm tình của người cha nói với con.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Thế Kỷ vẽ nên bức tranh quê hương bình dị, thân thương qua hành trình người cha đưa con về thăm quê. Những hình ảnh như “ao làng sen thơm”, “hoa gạo xao xác sân đình” gợi lên không gian làng quê Việt Nam yên bình, quen thuộc. Hương sen “thơm mãi” không chỉ là mùi hương mà còn là ký ức tuổi thơ bền vững trong tâm hồn người cha.
Những địa danh cụ thể như “sông Dinh”, “núi Gấm” trở thành điểm tựa tinh thần, nơi tâm hồn người cha luôn hướng về dù ở bất kỳ đâu. Hình ảnh “hạt giống đồng chiêm gieo vào tâm khảm” mang ý nghĩa biểu tượng, gợi lên giá trị lao động và truyền thống văn hóa được lưu truyền. Đặc biệt, cụm từ “vẫn xanh tươi góc bể chân trời” khẳng định sức sống mãnh liệt của tình yêu quê hương, vượt qua mọi giới hạn không gian và thời gian.
Không chỉ có vậy, người cha nhắn nhủ con về những giá trị vô giá của quê hương. Quê hương không chỉ là cảnh sắc mà còn là “bát cơm con ăn”, “ân tình con gặp”, chứa đựng công sức và tình yêu của người nông dân. “Mùi chua của bùn, vị nồng của đất” là biểu tượng của sự lao động vất vả, thấm đẫm mồ hôi trên đồng ruộng.
Khổ thơ cuối nhấn mạnh vai trò của quê hương trong việc chở che và dẫn dắt các thế hệ. Hình ảnh “ông bà dắt con sang” gợi lên sự truyền dạy, kế thừa từ thế hệ trước. Quê hương là nơi lưu giữ những giá trị đạo đức, tình cảm qua “dòng đục dòng trong, câu thương câu giận”. Qua đó, bài thơ gửi gắm trách nhiệm của thế hệ sau trong việc giữ gìn và làm giàu thêm giá trị cội nguồn.
Về nghệ thuật, Quê mình nổi bật với ngôn ngữ mộc mạc, gần gũi, giàu hình ảnh và cảm xúc. Thể thơ lục bát nhịp nhàng tạo giọng điệu tâm tình, thủ thỉ, phù hợp với câu chuyện của người cha.
Quê mình của Nguyễn Thế Kỷ là một bài ca quê hương thấm đẫm tình yêu và lòng biết ơn. Qua lời tâm tình của người cha, bài thơ không chỉ tái hiện vẻ đẹp quê hương mà còn nhấn mạnh giá trị cội nguồn và trách nhiệm giữ gìn, làm giàu thêm mạch nguồn quê hương.
Bài tham khảo Mẫu 1
Nhà thơ Nguyễn Thế Kỉ sinh năm 1956 tại Nghệ An, được biết đến là một nhà báo, nhà thơ tài năng. Ông đã từng giữ chức vụ Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa VIII, tổng biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam, chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình Hội nhà văn Việt Nam,…. ông đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm nổi tiếng, ghi dấu ấn trong lòng độc giả. Bài thơ Quê mình được đăng tải trên tạp chí Văn học & Tuổi trẻ. Tác phẩm mang đậm tình cảm yêu mến, tự hào của tác giả dành cho vẻ đẹp của quê hương, cùng với những giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về khung cảnh yên bình của quê hương, với những hình ảnh quen thuộc như “mấy dãy ao làng”, “sen còn thơm mãi”, “hoa gạo rơi xao xác”. Những hình ảnh này không chỉ gợi lên vẻ đẹp thanh bình của làng quê mà còn khiến chúng ta nhớ về tuổi thơ, những kỉ niệm bên cạnh gia đình, bè bạn.
Bên cạnh đó, tác giả còn khéo léo lồng ghép những giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc vào trong bài thơ. Hình ảnh “bến bờ nào cũng dội sóng sông Dinh" hay “hạt giống đồng chiêm gieo vào tâm khảm vẫn xanh tươi" đã thể hiện tình yêu quê hương, lòng biết ơn đối với ông bà, tổ tiên. Đồng thời, tác giả cũng muốn nhắn nhủ con cái rằng, dù có đi đâu, làm gì thì cũng không được quên cội nguồn, gốc rễ của mình.
“Góc bể chân trời đều dội sóng
Sông Dinh ơi! Sông Dinh
Xa ngải nào cũng mơ về núi Gấm
Hạt giống đồng chiêm gieo vào tâm khảm
Vẫn xanh tươi góc bể chân trời.”
Ngoài ra, bài thơ Quê mình còn thể hiện tình yêu thương, sự hy sinh cao cả của cha mẹ dành cho con cái. Hình ảnh “bát cơm con ăn, ân tình con gặp” đã cho thấy công lao to lớn của cha mẹ trong việc nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái nên người. Đồng thời, tác giả cũng muốn nhắc nhở con cái rằng, phải luôn biết ơn, trân trọng những gì mà cha mẹ đã dành cho mình.
“Đất quê mình nâng bước cha đi
Để có con hôm nay trở lại
Như sông suối về nơi biển ấy
Lại góp mưa xanh mát mạch nguồn”
Tóm lại, bài thơ là một tác phẩm hay, giàu ý nghĩa. Bài thơ đã thể hiện tình yêu quê hương, gia đình tha thiết của tác giả. Qua đó, tác giả muốn nhắn nhủ tới con cái rằng, dù có đi đâu, làm gì thì cũng không được quên cội nguồn, gốc rễ của mình.
Bài thơ Quê mình của Nguyễn Thế Kỉ là một bài thơ hay, giàu ý nghĩa. Bài thơ đã thể hiện tình yêu quê hương, gia đình tha thiết của tác giả. Qua đó, tác giả muốn nhắn nhủ tới con cái rằng, dù có đi đâu, làm gì thì cũng không được quên cội nguồn, gốc rễ của mình.
Bài tham khảo Mẫu 2
Bài thơ Quê mình của Nguyễn Thế Kỷ là một khúc ca quê hương đậm chất trữ tình, gợi lên tình yêu tha thiết, sâu đậm với mảnh đất quê nhà. Qua lời tâm tình của người cha nói với con, bài thơ không chỉ khắc họa vẻ đẹp bình dị, thân thương của quê hương mà còn gửi gắm những giá trị văn hóa, truyền thống và tình cảm gắn bó máu thịt với cội nguồn. Với ngôn từ mộc mạc, hình ảnh gần gũi, bài thơ đã chạm đến trái tim người đọc, khơi dậy niềm tự hào về quê hương trong mỗi con người.
Khổ thơ đầu tiên mở ra một khung cảnh quê hương bình dị, quen thuộc qua hành trình người cha đưa con về thăm quê:
Đưa con về thăm quê
Cha gặp lại tuổi mình ngày thơ dại
Mấy dãy ao làng sen còn thơm mãi
Hoa gạo rơi xao xác sân đình.
Hình ảnh “ao làng”, “sen thơm”, “hoa gạo”, “sân đình” là những nét đặc trưng của làng quê Việt Nam, gợi lên một không gian yên bình, thân thuộc. Từ “thơm mãi” không chỉ nói về hương sen mà còn gợi lên ký ức bền vững, trường tồn trong tâm hồn người cha. “Hoa gạo rơi xao xác sân đình” mang đến cảm giác vừa sống động vừa man mác, như ký ức tuổi thơ ùa về, nơi người cha từng lớn lên. Hình ảnh này không chỉ là cảnh sắc mà còn là biểu tượng của cội nguồn, nơi lưu giữ những kỷ niệm đẹp đẽ và hồn quê.
Tiếp theo, tác giả đã khắc họa tình yêu quê hương sâu sắc, như một phần không thể tách rời trong tâm hồn người cha:
Bến bờ nào cũng dội sóng sông Dinh
Xa ngái nào cũng mơ về núi Gấm
Hạt giống đồng chiêm gieo vào tâm khảm
Vẫn xanh tươi góc bể chân trời.
Tác giả sử dụng những địa danh cụ thể như “sông Dinh”, “núi Gấm” để làm nổi bật nét đặc trưng của quê hương. Dù đi đâu, tâm hồn người cha vẫn hướng về quê nhà, nơi có “sóng sông Dinh” và “núi Gấm” thân thương. Hình ảnh “hạt giống đồng chiêm gieo vào tâm khảm” mang ý nghĩa sâu sắc, gợi lên giá trị lao động, sự gắn bó với đất đai, đồng thời là biểu tượng của truyền thống văn hóa, tinh thần quê hương được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. “Vẫn xanh tươi góc bể chân trời” nhấn mạnh sức sống mãnh liệt của tình yêu quê hương, vượt qua mọi giới hạn không gian và thời gian.
Khổ thơ thứ ba là lời nhắn nhủ chân thành của người cha với con, khẳng định giá trị vô giá của quê hương:
Quê mình là vậy đó con ơi
Bát cơm con ăn, ân tình con gặp
Mùi chua của bùn, vị nồng của đất
Với cha, hơn cả bạc vàng.
Người cha chỉ ra rằng quê hương không chỉ là cảnh sắc, mà còn là những giá trị tinh thần, những ân tình sâu nặng. “Bát cơm con ăn” không chỉ là sản vật của đất trời mà còn chứa đựng công sức, tình yêu của những người nông dân. “Mùi chua của bùn, vị nồng của đất” là biểu tượng của sự lao động vất vả, của những giọt mồ hôi thấm đẫm trên đồng ruộng. Với người cha, những giá trị ấy quý hơn “bạc vàng”, bởi đó là cội rễ, là nguồn nuôi dưỡng cả thể chất lẫn tâm hồn con người.
Cuối cùng, tác giả nhấn mạnh vai trò của quê hương trong việc nâng đỡ, chở che và tiếp nối các thế hệ:
Bến bờ nào ông bà dắt con sang
Dòng đục dòng trong, câu thương câu giận
Thương cụ đồ xưa bút nghiên lận đận
Đỗ trạng rồi còn lội ruộng vinh quy.
Hình ảnh “ông bà dắt con sang” gợi lên sự dẫn dắt, truyền dạy của các thế hệ trước. “Dòng đục dòng trong, câu thương câu giận” là những giá trị đạo đức, tình cảm gia đình và quê hương, dù có lúc khó khăn nhưng luôn trong sáng, chân thành. Hình ảnh “cụ đồ xưa” với “bút nghiên lận đận” và “lội ruộng vinh quy” là biểu tượng của truyền thống hiếu học, ý chí vượt khó và sự gắn bó với quê hương. Dù thành công, người xưa vẫn không quên nguồn cội, vẫn trở về với ruộng đồng – nơi khởi nguồn của mọi giá trị.
Quê hương được ví như mảnh đất nâng đỡ, chở che cho người cha, để rồi hôm nay con lại trở về, tiếp nối hành trình của cha. Hình ảnh “sông suối về nơi biển” mang ý nghĩa sâu sắc, gợi lên sự hội tụ, kế thừa và trường tồn của tình yêu quê hương. “Góp mưa xanh mát mạch nguồn” là lời khẳng định về trách nhiệm của thế hệ sau trong việc giữ gìn, làm giàu thêm giá trị quê hương, để cội nguồn mãi tươi xanh.
Bài thơ Quê mình thành công nhờ ngôn ngữ mộc mạc, gần gũi, giàu hình ảnh và cảm xúc. Các hình ảnh như “sen thơm”, “hoa gạo”, “sông Dinh”, “núi Gấm” không chỉ cụ thể mà còn mang tính biểu tượng, gợi lên hồn quê Việt Nam. Thể thơ lục bát truyền thống tạo nhịp điệu êm đềm, phù hợp với giọng điệu tâm tình, thủ thỉ của người cha. Biện pháp ẩn dụ, so sánh được sử dụng tinh tế, giúp bài thơ vừa giản dị vừa sâu sắc.
Quê mình của Nguyễn Thế Kỷ là một bài ca quê hương đậm đà tình yêu và lòng biết ơn. Qua lời tâm tình của người cha, bài thơ không chỉ khắc họa vẻ đẹp quê hương mà còn gửi gắm thông điệp về giá trị của cội nguồn, truyền thống và trách nhiệm của mỗi người trong việc giữ gìn, tiếp nối mạch nguồn quê hương. Với cảm xúc chân thành và nghệ thuật tinh tế, bài thơ đã chạm đến trái tim người đọc, khơi dậy niềm tự hào và tình yêu quê hương trong mỗi chúng ta.
Bài tham khảo Mẫu 3
Bài thơ Quê mình của Nguyễn Thế Kỷ là một khúc ca trữ tình đậm chất quê hương, thể hiện tình yêu sâu đậm với mảnh đất quê nhà qua lời tâm tình của người cha nói với con. Với ngôn ngữ mộc mạc, hình ảnh gần gũi, tác phẩm không chỉ khắc họa vẻ đẹp quê hương mà còn gửi gắm giá trị cội nguồn, khơi dậy niềm tự hào trong lòng người đọc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Thế Kỷ vẽ nên bức tranh quê hương bình dị, thân thương qua hành trình người cha đưa con về thăm quê. Những hình ảnh như “ao làng sen thơm”, “hoa gạo xao xác sân đình” gợi lên không gian làng quê Việt Nam yên bình, quen thuộc. Hương sen “thơm mãi” không chỉ là mùi hương mà còn là ký ức tuổi thơ bền vững trong tâm hồn người cha. Những chi tiết này không chỉ tái hiện cảnh sắc mà còn là biểu tượng của hồn quê, lưu giữ những kỷ niệm đẹp đẽ và trường tồn.
Tình yêu quê hương được khắc họa sâu sắc ở khổ thơ thứ hai, thể hiện sự gắn bó máu thịt với mảnh đất quê nhà. Những địa danh cụ thể như “sông Dinh”, “núi Gấm” trở thành điểm tựa tinh thần, nơi tâm hồn người cha luôn hướng về dù ở bất kỳ đâu. Hình ảnh “hạt giống đồng chiêm gieo vào tâm khảm” mang ý nghĩa biểu tượng, gợi lên giá trị lao động và truyền thống văn hóa được lưu truyền. Đặc biệt, cụm từ “vẫn xanh tươi góc bể chân trời” khẳng định sức sống mãnh liệt của tình yêu quê hương, vượt qua mọi giới hạn không gian và thời gian.
Ở khổ thơ thứ ba, người cha nhắn nhủ con về những giá trị vô giá của quê hương. Quê hương không chỉ là cảnh sắc mà còn là “bát cơm con ăn”, “ân tình con gặp”, chứa đựng công sức và tình yêu của người nông dân. “Mùi chua của bùn, vị nồng của đất” là biểu tượng của sự lao động vất vả, thấm đẫm mồ hôi trên đồng ruộng. Với người cha, những giá trị tinh thần ấy quý hơn “bạc vàng”, bởi chúng là cội rễ nuôi dưỡng cả thể chất lẫn tâm hồn, là nguồn gốc của mọi thành công và hạnh phúc.
Khổ thơ cuối nhấn mạnh vai trò của quê hương trong việc chở che và dẫn dắt các thế hệ. Hình ảnh “ông bà dắt con sang” gợi lên sự truyền dạy, kế thừa từ thế hệ trước. Quê hương là nơi lưu giữ những giá trị đạo đức, tình cảm qua “dòng đục dòng trong, câu thương câu giận”. Hình ảnh “sông suối về nơi biển” và “góp mưa xanh mát mạch nguồn” mang ý nghĩa sâu sắc, thể hiện sự hội tụ, tiếp nối để quê hương mãi trường tồn. Qua đó, bài thơ gửi gắm trách nhiệm của thế hệ sau trong việc giữ gìn và làm giàu thêm giá trị cội nguồn.
Về nghệ thuật, Quê mình nổi bật với ngôn ngữ mộc mạc, gần gũi, giàu hình ảnh và cảm xúc. Thể thơ lục bát nhịp nhàng tạo giọng điệu tâm tình, thủ thỉ, phù hợp với câu chuyện của người cha. Các hình ảnh như “sen thơm”, “sông Dinh”, “núi Gấm” mang tính biểu tượng, gợi lên hồn quê Việt Nam. Biện pháp ẩn dụ, so sánh được sử dụng tinh tế, giúp bài thơ vừa giản dị vừa sâu sắc, dễ dàng chạm đến trái tim người đọc.
Quê mình của Nguyễn Thế Kỷ là một bài ca quê hương thấm đẫm tình yêu và lòng biết ơn. Qua lời tâm tình của người cha, bài thơ không chỉ tái hiện vẻ đẹp quê hương mà còn nhấn mạnh giá trị cội nguồn và trách nhiệm giữ gìn, làm giàu thêm mạch nguồn quê hương. Với nghệ thuật tinh tế và cảm xúc chân thành, tác phẩm khơi dậy niềm tự hào và tình yêu quê hương trong mỗi con người.


- Viết bài văn phân tích bài thơ Hoa dại của Trần Đăng Khoa lớp 9
- Viết bài văn phân tích đánh giá bài thơ Chiều thu quê hương của Huy Cận lớp 9
- Viết bài văn nghị luận phân tích bài thơ Đôi bàn chân mẹ của tác giả Nguyễn Song lớp 9
- Phân tích bài thơ Bầu trời trên giàn mướp của nhà thơ Hữu Thỉnh lớp 9
- Viết bài nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm "Trưa hè" của Bàng Bá Lân lớp 9
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 9 - Kết nối tri thức - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục
- Phân tích truyện ngắn "Biệt đội mùa hè" của Nguyễn Hữu Khoa lớp 9
- Thế kỉ XXI, xã hội có nhiều biến động, nhiều người chủ động để thích ứng nhưng cũng còn một số người ngại sự thay đổi lớp 9
- Phân tích bài thơ "Mùi cơm cháy" của tác giả Vũ Tuấn lớp 9
- Phân tích bài thơ "Bến đò đêm trăng" của Anh Thơ lớp 9
- Viết bài văn nghị luận phân tích bài thơ Đôi bàn chân mẹ của tác giả Nguyễn Song lớp 9
- Phân tích truyện ngắn "Biệt đội mùa hè" của Nguyễn Hữu Khoa lớp 9
- Thế kỉ XXI, xã hội có nhiều biến động, nhiều người chủ động để thích ứng nhưng cũng còn một số người ngại sự thay đổi lớp 9
- Phân tích bài thơ "Mùi cơm cháy" của tác giả Vũ Tuấn lớp 9
- Phân tích bài thơ "Bến đò đêm trăng" của Anh Thơ lớp 9
- Viết bài văn nghị luận phân tích bài thơ Đôi bàn chân mẹ của tác giả Nguyễn Song lớp 9