Tổng hợp 50 bài văn nghị luận phân tích một tác..

Phân tích truyện ngắn Cổ tích của tác giả Lê Văn Nguyên lớp 9


Truyện ngắn Cổ tích của Lê Văn Nguyên là một tác phẩm giàu chất nhân văn, kể về tình mẹ con sâu nặng giữa hai con người nghèo khổ, không cùng huyết thống nhưng gắn bó bằng sự yêu thương và sẻ chia. Dù mang tên “Cổ tích”, truyện không có phép màu hay bà tiên, mà chính tình người mới là điều kỳ diệu, sưởi ấm lòng người giữa cuộc sống khốn khó.

Tổng hợp Đề thi vào 10 có đáp án và lời giải

Toán - Văn - Anh

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý

I. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận:

– Giới thiệu tác giả và tác phẩm

– Thể hiện đánh giá ban đầu về truyện “Cổ tích”

2. Giới thiệu khái quát

Giới thiệu chung về tác phẩm “Cổ tích”: thể loại truyện ngắn; ngôi kể thứ 3; ca ngợi lẽ sống yêu thương và sẻ chia giữa con người với con người.

II. Thân bài:

1. Phân tích tác phẩm

* Tình yêu thương chị cỏ bò dành cho bà cụ kẹo

– Hoàn cảnh của chị cỏ bò: sống một mình, làm nghề cắt cỏ bò thuê, căn nhà tồi tàn, dúm dó bên cạnh những ngôi nhà cao tầng, cuộc sống của chị rất thiếu thốn và khó khăn.

– Chị cỏ bò đã vượt qua cái nghèo khó trong cuộc sống của mình để sẻ chia với bà cụ kẹo: chị chia cho bà nắm cơm đã nguội, mời bà về ở chung với mình. Hành động của chị thật đẹp, thể hiện rõ tấm lòng yêu thương giữa con người với con người.

– Chị chăm sóc yêu thương bà như người thân, như mẹ đẻ của mình.

– Giây phút bà cụ kẹo sắp từ giã cuộc đời, chị cỏ bò đã lo lắng, quan tâm, chăm sóc và yêu thương như chính việc mình sắp mất đi một phần cơ thể. Trái tim nhân hậu của chị đã làm cho hai con người xa lạ trở thành máu thịt của nhau. Tình yêu thương của chị với bà cụ kẹo đã vượt lên trên ranh giới của quan hệ huyết thống.

-> Chị cỏ bò là một người giàu lòng trắc ẩn, giàu  yêu thương, sống biết sẻ và đùm bọc những mảnh đời bất hạnh trong cuộc sống.

* Tình yêu thương của bà cụ kẹo dành cho chị cỏ bò

– Bà tuổi đời đã cao nhưng vẫn phải lặn lội đường đời để kiếm kế mưu sinh. Trời nắng bà vẫn ràng rạc ngoài đường để kiếm kế sinh nhai. Bà đã gặp chị cỏ bò một cách tình cờ và bà đã trở thành một phần trong cuộc sống của chị.

– Những ngày sống chung với chị cỏ bò bà đã yêu thương chị như con gái của mình. Ngày đông giá rét bà đã sưởi ấm cho chị cỏ bò bằng tình yêu của một người mẹ.

– Vì tình yêu thương với chị cỏ bò, trước khi chết bà đã mong chị có một cuộc sống thật sung túc và hạnh phúc. Tình yêu của bà dành cho cô con gái nuôi không chỉ thể hiện qua lời nói mà còn thể hiện qua việc làm, bà đã để lại cho chị 6, 7 chỉ vàng trước khi qua đời. Số tiền đó đã giúp chị cỏ bò có cuộc sống tốt hơn kh bà cụ kẹo không còn trên cõi đời.

-> Bà cụ kẹo cũng là một người giàu yêu thương, sống biết đùm bọc và sẻ chia với người khác.

2. Nghệ thuật của truyện

– Ngôn ngữ kể chân thật, giản dị, gần với đời sống thường nhật

– Nhân vật của truyện được đặt vào những tình huống đầy xúc động để từ đó những phẩm chất tốt đẹp trong mỗi nhân vật được bật lên.

– Giọng điệu kể nhẹ nhàng, tâm tình góp phần làm bật lên lẽ sống yêu thương giữa con người với  con.

3. Ý nghĩa của truyện:

Qua câu chuyện chúng ta học được cách sống yêu thương, sẻ chia. Cuộc sống này sẽ tốt đẹp hơn khi tất cả mọi người biết dựa vào nhau, biết sẻ chia cho nhau qua từng khoảnh khắc éo le mà cuộc sống tạo nên.

III. Kết bài

Tổng kết lại đặc sắc của tác phẩm

Bài siêu ngắn Mẫu 1

Truyện ngắn Cổ tích của Lê Văn Nguyên là một tác phẩm giàu chất nhân văn, kể về tình mẹ con sâu nặng giữa hai con người nghèo khổ, không cùng huyết thống nhưng gắn bó bằng sự yêu thương và sẻ chia. Dù mang tên “Cổ tích”, truyện không có phép màu hay bà tiên, mà chính tình người mới là điều kỳ diệu, sưởi ấm lòng người giữa cuộc sống khốn khó.

Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh bà cụ bán kẹo già yếu, cô đơn, sống lay lắt nơi phố xá bằng vài lọ kẹo và chum nước lã. Từng một thời gồng gánh nuôi con, nay bà chỉ còn lại một thân già rạc rài, bơ vơ giữa đời. Trong một trưa hè nắng gắt, bà gặp chị cỏ bò – người phụ nữ nghèo sống bằng nghề cắt cỏ thuê. Một nắm cơm sẻ đôi đã nối kết hai số phận. Chị đưa bà về sống cùng trong túp lều tạm bợ, và từ đó, họ coi nhau như mẹ con.

Tình cảm giữa bà cụ và chị cỏ bò phát triển một cách tự nhiên, mộc mạc nhưng vô cùng chân thật. Họ không có máu mủ ruột rà, nhưng lại yêu thương nhau như ruột thịt. Những chi tiết như “bên ngọn đèn hạt đỗ, nhà nhỏ câu nói, tiếng cười” cho thấy họ đã tạo dựng được một mái ấm – tuy nghèo nhưng đậm tình người. Hình ảnh “thêm bà cụ, bớt bát cơm mà vui” càng khẳng định giá trị của sự gắn bó, đùm bọc trong khốn khó.

Khi mùa đông khắc nghiệt đến, bà cụ yếu dần, cái chết cận kề. Trong đêm lạnh giá, hai con người ôm nhau sưởi ấm bằng hơi thở và tình thương. Biết mình không qua khỏi, bà dặn dò chị như một người mẹ ruột: “Nhỡ mẹ có đi, con nhớ thay sống áo cho mẹ nhé!”. Những lời trăn trối chan chứa tình yêu thương khiến người đọc không khỏi xúc động. Đến khi bà mất, chị cỏ bò tìm thấy trong chéo áo bà cụ một nút gút chứa mấy chiếc nhẫn vàng – tài sản cuối đời mà bà âm thầm để lại cho “con”. Đây là chi tiết cao trào thể hiện tình mẫu tử sâu sắc, sự hy sinh thầm lặng và tình thương vô điều kiện của người mẹ nghèo.

Với nhan đề Cổ tích, truyện gợi nhớ đến những điều kỳ diệu, nhưng không bằng phép màu, mà bằng chính lòng nhân ái, sự tử tế và tình cảm thiêng liêng giữa người với người. Nhà văn Lê Văn Nguyên đã sử dụng giọng văn nhẹ nhàng, lối kể chuyện chân thực, ngôn ngữ đời thường để khắc họa rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của những con người sống dưới đáy xã hội nhưng luôn giữ vững phẩm giá và tình thương.

Văn bản Cổ tích không chỉ là một câu chuyện cảm động về tình mẹ con, mà còn là thông điệp sâu sắc về giá trị của lòng nhân hậu trong cuộc sống. Truyện khiến người đọc tin rằng: giữa cuộc đời nhiều mất mát, tình người vẫn là điều đẹp đẽ và thiêng liêng nhất.

Bài siêu ngắn Mẫu 2

Trong xã hội hiện đại đầy bon chen và vô cảm, những câu chuyện về tình người lại càng trở nên quý giá. Cổ tích của Lê Văn Nguyên là một truyện ngắn đặc biệt, nơi tình mẫu tử không xuất phát từ huyết thống, mà được hình thành và nuôi dưỡng bằng sự đồng cảm, sẻ chia giữa hai con người nghèo khổ. Không có phép màu, nhưng truyện vẫn mang chất cổ tích bởi chính lòng nhân ái đã làm nên điều kỳ diệu.

Bà cụ trong truyện là hình ảnh tiêu biểu cho người mẹ tảo tần, từng nuôi ba đứa con bằng những lọ kẹo nhỏ nơi góc phố ven đô. Giờ đây, bà già yếu, cô độc và sống lay lắt qua ngày trong cảnh bơ vơ, không người thân thích. Cuộc đời bà tưởng chừng sẽ kết thúc trong cô quạnh, nếu không có cuộc gặp gỡ định mệnh với chị cỏ bò – người phụ nữ nghèo sống bằng nghề cắt cỏ thuê.

Chính nắm cơm được sẻ đôi trong trưa hè nắng gắt là khoảnh khắc khởi đầu cho một tình thân mới. Chị cỏ bò không giàu có, thậm chí còn chật vật mưu sinh, nhưng lại có một tấm lòng nhân hậu. Chị đón bà cụ về ở cùng trong túp lều rách nát, và từ đó, họ coi nhau như mẹ và con. Họ tìm thấy hơi ấm, niềm vui, và ý nghĩa cuộc sống nơi nhau, dù vật chất chỉ đạm bạc. Sự gắn bó giữa họ là minh chứng cho chân lý giản dị: con người không chỉ sống bằng cơm áo, mà còn cần tình thương và sự thấu hiểu.

Khi mùa đông đến, cái lạnh không chỉ là thử thách của thời tiết mà còn là phép thử tình người. Trong giá rét, hai con người gầy yếu ôm nhau dưới tấm chăn mỏng, chia sẻ hơi ấm cuối cùng. Biết mình sắp lìa đời, bà cụ dặn dò người “con gái” của mình thay áo, và nghẹn ngào nói lời từ biệt: “Mẹ thương con lắm!”. Đó là một tình cảm thiêng liêng, không cần huyết thống, vẫn đầy đủ sự hy sinh và bao dung của một người mẹ.

Chi tiết xúc động nhất chính là khi chị cỏ bò phát hiện trong chéo áo bà cụ những chiếc nhẫn vàng. Suốt đời nghèo khổ, bà cụ vẫn giấu gìn chút của cải nhỏ bé không phải cho mình, mà dành cho người con nuôi – như một sự bảo bọc sau cuối. Điều đó khiến tình cảm trong truyện không chỉ đơn thuần là đồng cảm giữa hai mảnh đời, mà đã trở thành một tình mẫu tử đúng nghĩa, đầy yêu thương và hy sinh.

Lê Văn Nguyên đã xây dựng một câu chuyện mang đậm chất hiện thực nhưng lại chứa đựng vẻ đẹp cổ tích. Giọng văn nhẹ nhàng, ngôn ngữ đời thường, cách kể không màu mè nhưng đầy xúc cảm. Tác phẩm không chỉ phản ánh số phận những con người dưới đáy xã hội, mà còn tôn vinh vẻ đẹp của lòng nhân ái – thứ luôn sáng lên ngay cả trong bóng tối của cuộc sống.

Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng sâu sắc, nhấn mạnh rằng điều kỳ diệu lớn nhất không phải là phép màu, mà chính là tình thương giữa con người với nhau. Trong một thế giới đầy biến động, truyện là lời nhắc nhở nhẹ nhàng rằng: tình người vẫn luôn hiện diện – chân thực, ấm áp và bất tử.

Bài tham khảo Mẫu 1

Balzac trong tác phẩm Tấn trò đời đã từng khẳng định: “Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại”. Qua tác phẩm "Cổ tích", nhà văn Lê Văn Nguyên đã phản ánh hiện thực cuộc sống một cách chân thực, sinh động. Từ đó tác phẩm cũng góp phần thể hiện giá trị nhân văn cao đẹp.

Truyện ngắn Cổ tích của Lê Văn Nguyên là một tác phẩm chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc và ý nghĩa nhân văn. Truyện đã chạm đến lòng người đọc không chỉ bởi cốt truyện giản dị mà còn bởi cách tác giả truyền tải những thông điệp về tình yêu thương, lòng nhân hậu và sự kết nối giữa các thế hệ. Tác phẩm khắc họa một bức tranh dung dị về cuộc sống gia đình, qua đó ca ngợi giá trị của những điều giản dị trong cuộc sống đã gắn kết những con người cùng khổ với nhau.

Truyện ngắn "Cổ tích" của Lê Văn Nguyên kể về cuộc đời của một bà cụ kẹo và một người phụ nữ tên Chị Cỏ Bò, cả hai đều có hoàn cảnh cơ cực, khó khăn, đơn độc. Bà cụ sống nhờ gánh kẹo của mình, để nuôi sống được cả ba mẹ con, nhưng rồi khi về già lại phải sống trong cảnh nghèo khó, cô đơn. Tình huống truyện bắt đầu khi bà gặp được chị Cỏ Bò - một người phụ nữ nghèo sống bằng nghề cắt cỏ thuê cũng có số phận khó khăn như mình. Hai người cùng cảnh ngộ tìm thấy nhau nên họ có thể cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc, sự an ủi cho hoàn cảnh. Rồi một ngày bà kẹo không qua khỏi, bà trăn trối mang nỗi niềm hy vọng chị có thể sống tốt hơn, vượt qua những thách thức cuộc đời. Dù chỉ là người con nuôi nhưng điều đó đã động viên bà suốt quãng đời còn lại, khâu nhẫn vàng của bà chính là tấm lòng, di sản cuối cùng mà bà kẹo có thể dành tặng chị Cỏ Bò.

Bà cụ hiện lên là hình ảnh tiêu biểu của những con người già nua, cơ cực, sống bên lề xã hội. Cuộc đời bà là chuỗi ngày dài lang thang kiếm sống nhờ những lọ kẹo bột, kẹo vừng cùng chum nước lã. Tuy sống trong nghèo khó, bà vẫn giữ được sự nhân hậu, giàu tình yêu thương, đặc biệt là khi gặp chị cỏ bò – người cùng cảnh ngộ. Lòng nhân hậu của bà cụ không chỉ được thể hiện qua những hành động mà còn qua lời nói. Lời dặn dò cuối cùng của bà dành cho chị cỏ bò: “Nhớ mẹ có đi, con nhớ thay sống cho mẹ nhé!” Lời nói ấy vừa như một di nguyện, vừa như một sự gửi gắm tình cảm thiêng liêng. Bà không có điều kiện để chăm sóc chị như một người mẹ thực thụ, nhưng bà mong chị sống thay cho mình, tiếp tục gìn giữ tình người mà bà đã trao đi. Chi tiết bà cụ để lại vài khâu nhẫn vàng ở cuối truyện là một nút thắt bất ngờ, giàu giá trị biểu tượng. Những chiếc nhẫn vàng ấy không chỉ là tài sản vật chất mà bà tích góp cả đời mà còn là minh chứng cho tình yêu thương bao la của bà. Trong hoàn cảnh nghèo khó, bà không dùng vàng để cải thiện đời sống của mình mà lại giữ lại như một món quà dành tặng cho chị cỏ bò – người con nuôi mà bà quý như con ruột. Hành động này thể hiện rõ nét đức hi sinh cao cả của bà. Bà cụ là hiện thân của sự hiền hậu, lòng nhân ái, đức bao dung. Cái chết của bà, dù đau thương, lại được soi sáng bởi tình yêu thương và sự sẻ chia, làm cho hình ảnh bà trở nên bất tử trong lòng độc giả.

Văn học ở bất kì thời đại nào muốn phản ánh hiện thực đời sống đều phải thông qua các hình tượng nhân vật điển hình. Chị cỏ bò là hình ảnh của những con người nghèo khổ, lao động vất vả để mưu sinh. Cái tên “cỏ bò” mà người phố đặt cho chị không chỉ nói lên nghề nghiệp cắt cỏ thuê mà còn phản ánh sự thấp bé, nhỏ nhoi của chị trong xã hội. Tuy nhiên, đằng sau cái tên ấy là một trái tim giàu lòng nhân ái. Cuộc gặp gỡ giữa chị và bà cụ đã làm thay đổi cuộc đời cả hai. Dẫu bản thân khốn khó, chị vẫn sẵn sàng đưa bà cụ về căn lều tồi tàn của mình, chia sẻ từng bữa cơm đạm bạc, từng đêm đông giá rét. Căn lều nhỏ của chị trở thành tổ ấm đầy tình thương, nơi mà hai con người cô đơn tìm thấy sự an ủi và chỗ dựa tinh thần. Khi bà cụ qua đời, chị cỏ bò đã thể hiện tình cảm sâu sắc của mình qua hình ảnh đầy xúc động: “Chị chỉ biết cuống quýt hai bàn tay xoa xoa, nắn nắn tấm thân già nguội giá.” Hành động này không chỉ là biểu hiện của sự đau xót mà còn cho thấy tấm lòng biết ơn và tình thương chân thành của chị dành cho người mẹ nuôi. Chi tiết chị tìm thấy những khâu nhẫn vàng ở cuối truyện đã đẩy cảm xúc của độc giả lên cao trào. Hành động “sụp xuống, tức tưởi: ‘Mẹ ơi…’” của chị thể hiện nỗi xúc động nghẹn ngào khi nhận ra tình yêu thương và đức hi sinh của bà cụ dành cho mình. Chị cỏ bò, qua đó, trở thành biểu tượng của lòng biết ơn và sự trân trọng tình người.

Tác giả Lê Văn Nguyên đã khéo léo xây dựng tình huống truyện đầy tính nhân văn. Sự gặp gỡ tình cờ giữa bà cụ và chị cỏ bò dưới gốc đa không chỉ là bước ngoặt trong cuộc đời hai nhân vật mà còn là khởi đầu cho một câu chuyện cảm động về tình người. Ngôn ngữ kể chuyện giản dị, đời thường nhưng giàu cảm xúc. Cách miêu tả bối cảnh chi tiết – từ cái nóng gay gắt của trưa hè đến cái lạnh buốt giá của mùa đông – làm nổi bật sự khốn khó mà hai nhân vật phải đối mặt. Tình tiết bất ngờ ở cuối truyện – khi chị cỏ bò tìm thấy những khâu nhẫn vàng – không chỉ tạo điểm nhấn mà còn làm sâu sắc thêm ý nghĩa của câu chuyện. Tình yêu thương và đức hi sinh của bà cụ trở thành giá trị trung tâm, khiến người đọc không khỏi xúc động và suy ngẫm. Ngoài ra, tác giả đã kết hợp hài hòa giữa hiện thực và màu sắc cổ tích. Dù bối cảnh câu chuyện đầy khó khăn, truyện vẫn toát lên niềm tin vào tình người và những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Chi tiết những khâu nhẫn vàng giống như một phép màu, làm sáng lên hình ảnh bà cụ – người mẹ nuôi hiền hậu trong “câu chuyện cổ tích” của thời hiện đại.

Truyện ngắn “Cổ tích” gửi gắm nhiều thông điệp ý nghĩa về tình yêu thương và lòng nhân ái. Tình người là ánh sáng giúp con người vượt qua nghèo đói, khó khăn. Câu chuyện còn nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm đối với những người bất hạnh xung quanh. Một hành động nhỏ của tình yêu thương cũng có thể làm thay đổi cuộc đời người khác.

Nhà văn là kẻ đã dùng những hình tượng và từ ngữ hoàn chỉnh lạ lùng để cô đặc lại những ý nghĩ, những cảm xúc, những giọt máu và những giọt lệ cay đắng, nóng bóng của thế gian này. Hơn bất kì một nghề nghiệp, tôi yêu nghề văn bởi hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của tôi và hiện thực cuộc đời dắt tôi đến một chân trời mới, một tâm hồn mới và những điều kì diệu chỉ thấy trong mơ.

Bài tham khảo Mẫu 2

Truyện ngắn Cổ tích của Lê Văn Nguyên là một bản nhạc buồn, nhẹ nhàng mà thấm đẫm tình người, nơi những con người nhỏ bé trong xã hội bỗng tỏa sáng bằng thứ ánh sáng của tình thương, lòng trắc ẩn và sự hy sinh. Không cần phép màu hay bà tiên, tác phẩm vẫn gợi nên cái chất “cổ tích” rất riêng – cổ tích giữa đời thường, cổ tích của những mảnh đời cùng khổ nương tựa vào nhau để sống, để yêu thương và để giữ gìn phẩm giá trong cõi nghèo khó.

Tác phẩm kể về mối duyên gặp gỡ giữa bà cụ bán kẹo già nua, bơ vơ, và người phụ nữ nghèo mang biệt danh “chị cỏ bò” – một lao động lam lũ đi cắt cỏ thuê. Họ gặp nhau trong một buổi trưa hè cháy nắng, bên gốc đa trên đê, khi bà cụ đang lả đi vì kiệt sức, còn chị cỏ bò ngồi nghỉ gánh. Nắm cơm sẻ đôi không chỉ làm dịu cơn đói mà còn mở đầu cho một tình mẹ con mới giữa hai con người vốn xa lạ. Từ đó, họ cùng sống chung trong túp lều nhỏ – một mái ấm nghèo nàn nhưng ngập tràn tình cảm, nơi “tối xuống, bên ngọn đèn hạt đỗ, nhà nhỏ câu nói, tiếng cười”.

Lê Văn Nguyên đã rất tinh tế khi tạo dựng hình ảnh hai con người tưởng như mất hết, lại trở thành chốn nương tựa của nhau. Họ không có huyết thống, nhưng gắn bó bằng tình thương. Chị cỏ bò đón bà cụ về sống cùng mình không phải vì vụ lợi, mà vì sự đồng cảm, chia sẻ. Còn bà cụ, trong những ngày cuối đời, đã xem chị như đứa con ruột để thương, để dặn dò, để trao gửi cả một phần gia tài nhỏ bé mà bà đã chắt chiu suốt đời.

Chi tiết cuối truyện – lúc bà cụ qua đời – chính là điểm rơi xúc động nhất của tác phẩm. Trong cái lạnh giá của mùa đông, hai con người ôm nhau trong tấm chăn chiến rách nát để truyền cho nhau hơi ấm. Trước khi mất, bà cụ không lo cho mình, mà chỉ mong có “con” thay áo cho mẹ, một mong muốn nhỏ nhoi nhưng đầy nhân tính và đau đáu tình thương. Và trong chiếc áo cũ của bà, chị cỏ bò phát hiện những chiếc nhẫn vàng – tài sản cuối cùng mà bà âm thầm giữ lại để dành cho “con”. Đó là “của để dành” không phải cho mình, mà là cho người mà bà thương yêu, một cách thể hiện tình mẫu tử thật chân thành và sâu sắc.

Ngôn ngữ trong Cổ tích giản dị, chân thực, mang hơi thở đời sống. Nhịp kể chậm rãi, nhẹ nhàng, đầy chất thơ. Lê Văn Nguyên không sử dụng những biện pháp tu từ cầu kỳ, mà chạm vào lòng người bằng cảm xúc thật, bằng sự chân thành trong từng lời thoại, từng hành động nhỏ. Cách kể ấy khiến cho truyện mang chất cổ tích hiện đại: không có thần tiên, không có phép màu, nhưng có tình thương, có lòng nhân ái – thứ khiến con người vượt lên nghèo khổ.

Tác phẩm cũng phản ánh một hiện thực xã hội đầy khắc nghiệt – nơi những người lao động nghèo dễ dàng bị đẩy ra lề xã hội khi công nghệ, hiện đại hóa dần thay thế sức người. Nhưng trong hoàn cảnh đó, điều đáng quý là họ không đánh mất mình, không đánh mất lòng tử tế. Qua đó, tác phẩm như một lời nhắn nhủ: giữa một thế giới đầy biến động, tình người vẫn là điểm tựa bền vững nhất.

Cổ tích không chỉ là một câu chuyện xúc động về tình mẫu tử mà còn là bản anh hùng ca thầm lặng về nghị lực sống và lòng nhân ái của những con người dưới đáy xã hội. Dù chỉ là một truyện ngắn, tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc niềm tin vào tình người – thứ cổ tích đẹp đẽ và có thật trong đời sống hôm nay.

Bài tham khảo Mẫu 3

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, có không ít tác phẩm chọn cách đi vào đời sống những con người nhỏ bé, từ đó khắc họa nên những câu chuyện lớn về tình người, nhân sinh và lòng trắc ẩn. Cổ tích của Lê Văn Nguyên là một truyện ngắn như thế. Không lộng lẫy, không huyễn hoặc, nhưng tác phẩm lại mang đúng tinh thần cổ tích – nơi cái thiện được tôn vinh, nơi yêu thương trở thành cứu rỗi. Qua cuộc gặp gỡ và gắn bó của hai mảnh đời cơ cực – bà cụ bán kẹo và chị cỏ bò – nhà văn đã dệt nên một bản tình ca đầy xúc động về tình mẹ con, về lòng nhân hậu trong cõi đời nghèo khổ nhưng giàu yêu thương.

Ngay từ những dòng đầu, truyện dẫn người đọc bước vào thế giới của nghèo đói, cô đơn và tủi cực. Bà cụ – nhân vật chính – là một người phụ nữ già nua, ốm yếu, sống lay lắt bên những lọ kẹo và chum nước lã. Bà từng một thời gồng gánh nuôi ba mẹ con bằng chút kẹo bột, kẹo vừng bên cột đèn nơi góc phố. Cái quá khứ khổ cực ấy giờ chỉ còn đọng lại trong một thân xác rạc rài, run rẩy giữa trưa hè nắng cháy.

Chị cỏ bò – người phụ nữ nghèo, sống bằng nghề cắt cỏ thuê cho xe bò – cũng không khá hơn. Hai con người – hai số phận – gặp nhau trong sự khốn cùng, nhưng lại mở ra cho nhau một mối liên kết nhân văn, một thứ “duyên” không cần máu mủ mà vẫn đầy thiêng liêng.

Cuộc sống chung trong túp lều “thung vách cát, phủ mái giấy dầu” đã tạo nên một mái ấm nhỏ, nơi người đọc cảm nhận được thứ tình cảm sâu sắc và ấm áp. Chị cỏ bò – dẫu nghèo – vẫn rước bà cụ về sống cùng, coi như mẹ. Bà cụ – dẫu chẳng còn gì – lại đem đến cho chị hơi ấm của một người mẹ thực sự. Cả hai đều nghèo vật chất, nhưng không nghèo tình cảm. Trong bóng tối của nghèo khổ, họ thắp sáng cuộc sống bằng thứ ánh sáng của tình thân.

Những chi tiết như “tối xuống, bên ngọn đèn hạt đỗ, nhà nhỏ câu nói, tiếng cười” hay “thêm bà cụ, bớt bát cơm mà vui” đã thể hiện rõ chất “người” trong họ – tình cảm không đặt trên nền tảng vật chất, mà đến từ tấm lòng sẻ chia. Tình mẹ con giữa bà cụ và chị cỏ bò không cần tuyên ngôn, chỉ hiện hữu qua từng cử chỉ, từng cái ôm, từng lời dặn dò.

Khi mùa đông về, cái lạnh không chỉ cắt da cắt thịt, mà còn như bóp nghẹt hy vọng sống. Trong đêm đông buốt giá, hai con người gầy yếu ôm lấy nhau trong tấm chăn chiến rách, truyền hơi ấm cho nhau. Và chính trong khoảnh khắc ranh giới giữa sống và chết, tình thương lại trở nên sâu đậm nhất. Bà cụ biết mình không qua khỏi, nhưng không lo sợ cái chết, chỉ lo “con” có còn nhớ thay áo cho mẹ. Câu nói nghẹn ngào “Con ơi, mẹ thương con lắm!” không chỉ là lời trăn trối, mà còn là lời truyền trao của tình mẫu tử – thiêng liêng và vĩnh cửu.

Chi tiết phát hiện ra năm sáu chiếc nhẫn vàng trong chéo áo cũ là một cao trào xúc động. Suốt cuộc đời nghèo khổ, bà cụ vẫn giấu giếm một chút của cải – không phải để dùng cho mình, mà để dành cho “con”. Đây là nút thắt mang tính biểu tượng: trong tận cùng của cái nghèo, bà cụ vẫn giữ được lòng nhân ái và ý thức về trách nhiệm, về tình cảm dành cho người khác. Nó làm sáng lên chân dung một con người “giàu” theo nghĩa đạo đức, tinh thần.

Tuy không có thần tiên, không có phép màu, Cổ tích vẫn mang đậm chất cổ tích bởi nó làm sống dậy một niềm tin rằng: trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người vẫn có thể yêu thương, chia sẻ, và sống tử tế với nhau. Những hành động nhỏ – một nắm cơm sẻ đôi, một mái nhà chia sẻ, một chiếc áo được giữ gìn – chính là những “phép màu” thật sự.

Lê Văn Nguyên thành công trong việc dùng ngôn ngữ mộc mạc, đậm chất đời thường để kể lại một câu chuyện đầy chất nhân văn. Tác phẩm không dùng những hình ảnh hoa mỹ, nhưng từng chi tiết đều thấm đẫm tình cảm. Nhịp kể chậm rãi, giàu chất thơ, khiến người đọc không khỏi nghẹn ngào khi đến đoạn kết.

Cổ tích của Lê Văn Nguyên là một minh chứng cho sức mạnh của tình thương trong cuộc sống. Dẫu trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, con người vẫn có thể nương tựa vào nhau, trao cho nhau sự sống và niềm tin. Tác phẩm không tô hồng hiện thực, nhưng lại gieo vào lòng người đọc một thứ ánh sáng – ánh sáng của nhân tính, của sự tử tế. Đó mới chính là điều kỳ diệu nhất, là "phép màu" thật sự trong đời sống. Và vì thế, Cổ tích không chỉ là một truyện ngắn, mà là một thông điệp đẹp đẽ về lòng nhân ái – điều mà văn chương chân chính luôn hướng tới.

Bài tham khảo Mẫu 4

Trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại, có những truyện ngắn tuy dung dị, giản đơn nhưng lại lay động sâu xa bởi cách khơi gợi lòng trắc ẩn, niềm tin và tình người. Cổ tích của Lê Văn Nguyên là một tác phẩm như thế. Không thần tiên, không phép màu, cũng chẳng có kết thúc kỳ ảo, nhưng truyện vẫn mang đậm hơi thở cổ tích bởi nó kể về một tình mẹ con thiêng liêng được hình thành trong nghèo khó, nơi hai số phận bất hạnh tình cờ gặp gỡ và nương tựa vào nhau để sống. Truyện là bản hòa ca xúc động về tình thương, lòng nhân hậu, về sự hy sinh âm thầm nhưng cao cả của những con người sống ở đáy xã hội.

Tác phẩm mở ra bằng hình ảnh bà cụ bán kẹo – một người phụ nữ già nua, ốm yếu, sống lay lắt nhờ những lọ kẹo bột và chum nước lã. Bà từng là trụ cột nuôi ba mẹ con bằng gánh kẹo nhỏ bên góc phố ven đô. Giờ đây, khi sức tàn lực kiệt, bà sống cảnh cô đơn, vật vờ giữa phố xá, không nơi nương tựa. Trong một buổi trưa hè oi bức, bà cụ gặp chị cỏ bò – người phụ nữ lam lũ đang ngồi nghỉ gánh cỏ bên gốc đa trên đê. Một nắm cơm được sẻ đôi trong cái nắng như thiêu đốt đã gắn kết hai con người tưởng như xa lạ. Từ đó, bà cụ theo chị về sống trong túp lều nhỏ lụp xụp nơi chân một tòa nhà cao tầng – nơi "tối xuống, bên ngọn đèn hạt đỗ, nhà nhỏ câu nói, tiếng cười".

Tình cảm giữa bà cụ và chị cỏ bò phát triển một cách tự nhiên nhưng đầy cảm động. Họ không có quan hệ huyết thống, nhưng sự đồng cảm, sẻ chia trong cảnh ngộ khiến họ xem nhau như mẹ và con. Chị cỏ bò đón bà cụ về không vì lợi ích vật chất, mà chỉ bởi lòng thương người, sự tử tế. Bà cụ, dù nghèo khó, bệnh tật, vẫn mang đến hơi ấm, sự chở che và yêu thương như một người mẹ thực sự. Chính trong túp lều nghèo ấy, tình người đã đâm chồi nảy lộc, tạo nên một mái ấm thực sự giữa đời sống lạnh lẽo.

Tình cảm ấy được khắc họa rõ nét hơn trong hoàn cảnh khắc nghiệt của mùa đông. Khi gió bấc ùa về, cái lạnh xuyên qua vách cót, mái giấy dầu rách nát cũng là lúc sức khỏe bà cụ suy kiệt dần. Trong đêm đông buốt giá, hai tấm thân gầy gò ôm lấy nhau dưới tấm chăn chiến rách nát để sưởi ấm cho nhau. Bà cụ, linh cảm được cái chết đang đến gần, đã dặn dò chị những lời cuối cùng đầy xúc động: “Nhỡ mẹ có đi, con nhớ thay sống áo cho mẹ nhé!”. Và rồi, bà òa khóc: “Con ơi, mẹ thương con lắm! Cầu trời con sống sung sướng…”. Những lời trăn trối ấy không chỉ là lời chia tay, mà còn là lời chứng nhận sâu sắc nhất cho tình mẫu tử không máu mủ mà chan chứa yêu thương.

Cao trào của câu chuyện nằm ở chi tiết sau khi bà cụ qua đời, chị cỏ bò tìm được trong chéo áo cũ một nút gút hình củ ấu, bên trong là năm sáu chiếc nhẫn vàng. Suốt đời nghèo khổ, bà cụ vẫn âm thầm giữ lại chút tài sản quý giá này – không phải cho bản thân, mà để lại cho người mà bà coi là con. Chi tiết ấy khiến người đọc sững sờ và xúc động. Đó là biểu tượng cho tình mẫu tử bền vững, là sự hy sinh âm thầm của người mẹ: luôn dành phần tốt đẹp cuối cùng cho con, dù không cùng huyết thống. Hành động gỡ nút áo, phát hiện số vàng, rồi sụp xuống mà khóc “Mẹ ơi…” của chị cỏ bò không chỉ là nỗi đau mất người thân, mà còn là sự vỡ òa của tình cảm bị dồn nén, của lòng biết ơn và thương xót vô hạn.

Tựa đề Cổ tích không phải ngẫu nhiên. Truyện không có bà tiên, không có điều kỳ diệu siêu nhiên, nhưng chính lòng nhân ái, tình mẫu tử, sự hy sinh và sẻ chia đã tạo nên chất "cổ tích" chân thực nhất. Giữa cuộc đời bộn bề, nghèo đói và khốn khó, điều kỳ diệu chính là tình người còn hiện diện. Nhà văn Lê Văn Nguyên đã rất thành công trong việc khơi dậy cái chất nhân văn sâu lắng từ những chi tiết nhỏ, đời thường nhất. Ngôn ngữ trong truyện giản dị, đậm chất đời sống, không phô trương nhưng giàu cảm xúc. Nhịp kể chậm, nhẹ nhàng, khiến người đọc như lặng đi trong từng dòng chữ.

Cổ tích không chỉ là một truyện ngắn về tình mẹ con, mà còn là một lời khẳng định: lòng nhân hậu, tình thương và sự tử tế là những giá trị vĩnh hằng, vượt qua mọi hoàn cảnh khắc nghiệt. Trong một xã hội còn nhiều bất công, nơi những người nghèo dễ bị lãng quên, tác phẩm như một tiếng nói nhắc nhở ta phải biết trân trọng, sẻ chia, và yêu thương nhiều hơn.

Tác phẩm Cổ tích của Lê Văn Nguyên là một truyện ngắn giàu giá trị nhân văn, thể hiện sâu sắc tình cảm giữa những con người nghèo khó nhưng đầy tình thương. Tác phẩm để lại dư âm lặng lẽ mà sâu xa, gợi nhắc người đọc về lòng trắc ẩn, sự hy sinh thầm lặng và niềm tin vào tình người. Giữa cuộc sống đầy lo toan, Cổ tích là một khoảng lặng quý giá – nơi mà cái đẹp của con người được tỏa sáng rạng ngời trong chính bóng tối của nghèo khổ.


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 9 - Kết nối tri thức - Xem ngay

Tham Gia Group 2K10 Ôn Thi Vào Lớp 10 Miễn Phí