Tổng hợp 50 bài văn phân tích một tác phẩm thơ l..

Phân tích bài thơ Chế học trò ngủ gật của Nguyễn Khuyến lớp 9


Nguyễn Khuyến là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca trung đại Việt Nam, nổi bật với giọng thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà ẩn chứa những lời phê phán, châm biếm sâu cay.

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Khuyến: một trong những nhà thơ tiêu biểu cuối thế kỉ XIX, nổi tiếng với các bài thơ trào phúng, đả kích thói hư tật xấu.

- Giới thiệu bài thơ: Chế học trò ngủ gật là bài thơ thể hiện sự hài hước, mỉa mai, phê phán thói lười học, học hình thức của học trò thời xưa.

2. Thân bài

- Nội dung

+ Bài thơ khắc họa hình ảnh học trò ngủ gật khi ngồi học:

+ Hình ảnh sinh động: “gật gà gật gưỡng”, “mắt lim dim”, “giọng khê nồng nặc”.

+ Dáng vẻ buồn cười, thiếu nghiêm túc nhưng lại phản ánh thực trạng phổ biến trong học tập.

+ Tác giả phê phán thói học hình thức, học đối phó: học trò tưởng gật đầu vì câu hay nhưng thực chất chỉ ngủ mê.

- Nghệ thuật

+ Thể thơ: thất ngôn bát cú Đường luật, bố cục chặt chẽ, đối ngẫu cân xứng.

+ Ngôn ngữ: gần gũi, dân dã, có khẩu ngữ, sinh động, hài hước.

- Thủ pháp trào phúng:

+ Cường điệu, phóng đại: so sánh học trò ngủ gật như “lên đồng”, “ma men tít mù say”.

+ Ẩn dụ, liên tưởng: gật đầu như Chu Y – thần áo đỏ báo câu hay → mỉa mai việc học hời hợt.

+ Giọng điệu trào phúng, mỉa mai: vừa cười vừa phê phán, tạo hiệu quả biếm họa cao.

- Giá trị tư tưởng

+ Phê phán thói lười học, học hình thức, học để đối phó, học chỉ để lấy danh lợi.

+ Nhắc nhở học sinh phải học nghiêm túc, ham học hỏi, coi trọng kiến thức thực chất.

+ Tôn vinh tinh thần học tập chăm chỉ, rèn luyện tri thức và nhân cách.

3. Kết bài

- Khẳng định giá trị hiện thực và nghệ thuật trào phúng của bài thơ.

- Đánh giá vị trí của bài thơ trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến: vừa gây cười, vừa gửi gắm bài học sâu sắc về học tập.

- Liên hệ: thông điệp vẫn còn giá trị với học sinh hôm nay.

Bài siêu ngắn Mẫu 1

Nguyễn Khuyến là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca trung đại Việt Nam, nổi bật với giọng thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà ẩn chứa những lời phê phán, châm biếm sâu cay. Trong số những tác phẩm của ông, bài thơ “Chế học trò ngủ gật” đã để lại nhiều ấn tượng bởi nét duyên hài hước và tinh thần trào lộng. Tác phẩm khắc họa hình ảnh một cậu học trò lười biếng, ngủ gật ngay bên cạnh thầy, qua đó vừa đem lại tiếng cười dí dỏm vừa phản ánh sinh động một mảng đời sống học đường dưới thời phong kiến, góp phần thể hiện rõ phong cách sáng tác độc đáo của Nguyễn Khuyến. Bài thơ bắt đầu bằng việc miêu tả cảnh lớp học đầy sôi nổi, giáo viên đang giảng bài. Câu thơ: “Trò trẹt chi bay học cạnh thầy” gợi cảnh lớp học vui tươi. Câu thơ “Gật gà gật gưỡng nực cười thay” là hình ảnh cậu học trò ngủ gật. “Gật gà gật gưỡng” ý muốn nói đến trạng thái mơ ngủ, không tỉnh táo khi học bài. Hình ảnh thơ với những từ ngữ hài hước, hóm hỉnh mang đến những điệu cười khoái chí cho người đọc. Các từ láy “nồng nặc”, “lim dim”, “la liệt” miêu tả trạng thái mệt mỏi và buồn ngủ của cậu học trò; biện pháp nói quá trong những dòng thơ trên làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho bài thơ, khiến bài thơ hóm hỉnh, khôi hài đúng như phong cách sáng tác của Nguyễn Khuyến. Hai câu thơ cuối thể hiện rõ cách trốn học của học trò. Nhà thơ mặc dù không hài lòng với ý thức học tập của cậu học trò, thế nhưng ông không trách phạt mà nhắc nhở nhẹ nhàng, hết sức tinh tế. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ hài hước, dân dã, giàu sức gợi. Hình ảnh được xây dựng sinh động, gần gũi, kết hợp các từ láy và biện pháp tu từ để tạo tiếng cười. Giọng điệu châm biếm nhẹ nhàng, hóm hỉnh, vừa phê phán vừa mang ý nghĩa giáo dục. Qua bài thơ “Chế học trò ngủ gật”, Nguyễn Khuyến không chỉ đem lại tiếng cười châm biếm về thói quen lười biếng của học trò, mà còn gửi gắm lời nhắc nhở đầy ý nghĩa về thái độ học tập. Bằng giọng thơ hóm hỉnh, hài hước, ông đã khéo léo khuyên răn thế hệ trẻ phải biết quý trọng việc học, giữ sự tập trung và tinh thần nghiêm túc. Vì thế, tác phẩm không chỉ phản ánh một mảng sinh hoạt học đường dưới thời phong kiến mà còn để lại bài học sâu sắc, vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay.

Bài siêu ngắn Mẫu 2

Nguyễn Khuyến (1835–1909) là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX, nổi tiếng với các bài thơ trào phúng, châm biếm sâu cay, vừa dí dỏm vừa giàu tính hiện thực. Trong số đó, bài thơ Chế học trò ngủ gật là một tác phẩm tiêu biểu, thể hiện sự hài hước, mỉa mai, đồng thời gửi gắm bài học về tinh thần học tập nghiêm túc. Trong bài thơ, Nguyễn Khuyến đã khéo léo sử dụng hình ảnh của một học trò đang mệt mỏi, lơ đãng trong giờ học để phản ánh một sự thật đầy ẩn ý về xã hội, về vai trò của người thầy và người trò trong quá trình học hành. Mặc dù mang hình thức hài hước, với những câu chuyện về trò ngủ gật, bài thơ không chỉ dừng lại ở một trò đùa nhẹ nhàng mà chứa đựng nhiều tầng nghĩa sâu sắc, tạo ra những suy ngẫm về giáo dục, về lòng nhiệt huyết và trách nhiệm của thế hệ trẻ.

Bài siêu ngắn Mẫu 3

Nguyễn Khuyến là gương mặt tiêu biểu của thơ ca trung đại Việt Nam, nổi bật với giọng thơ hóm hỉnh, nhẹ nhàng mà ẩn chứa ý nghĩa phê phán sâu sắc. Bài thơ Chế học trò ngủ gật là tác phẩm trào phúng tiêu biểu, khắc họa hình ảnh một học trò lười biếng, ngủ gật ngay trong lúc học, qua đó phản ánh sinh động đời sống học đường thời phong kiến. Tác giả sử dụng nhiều hình ảnh hài hước như “gật gà gật gưỡng”, “mắt lim dim”, “giọng khê nồng nặc” để miêu tả trạng thái buồn ngủ, thiếu nghiêm túc của học trò, tạo nên tiếng cười dí dỏm cho người đọc. Các từ láy và biện pháp nói quá được vận dụng linh hoạt, làm nổi bật tính chất trào phúng của bài thơ. Đặc biệt, giọng điệu châm biếm nhẹ nhàng, không gay gắt thể hiện thái độ nhắc nhở tinh tế của nhà thơ đối với thói học lười, học hình thức. Qua tác phẩm, Nguyễn Khuyến không chỉ phê phán thói quen xấu trong học tập mà còn gửi gắm lời khuyên sâu sắc về ý thức học hành nghiêm túc. Bài thơ vì thế vẫn còn nguyên giá trị giáo dục đối với học sinh hôm nay.

Bài tham khảo Mẫu 1

Nguyễn Khuyến (1835–1909) là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX, nổi tiếng với các bài thơ trào phúng, châm biếm sâu cay, vừa dí dỏm vừa giàu tính hiện thực. Trong số đó, bài thơ Chế học trò ngủ gật là một tác phẩm tiêu biểu, thể hiện sự hài hước, mỉa mai, đồng thời gửi gắm bài học về tinh thần học tập nghiêm túc. Bằng ngòi bút tinh tế, tác giả đã khắc họa hình ảnh học trò ngủ gật, phơi bày thói lười học, học hình thức và những hậu quả của nó.

Bài thơ mở ra bằng những hình ảnh sinh động, hài hước về học trò ngủ gật: “gật gà gật gưỡng”, “mắt lim dim nhắp đã cay”, “giọng khê nồng nặc không ra tiếng”. Những chi tiết này không chỉ miêu tả dáng vẻ lười biếng, mệt mỏi mà còn tạo hiệu quả hài hước, khiến người đọc vừa cười vừa thấy thực trạng đáng báo động. Nguyễn Khuyến đã nắm bắt được từng cử chỉ, biểu cảm của học trò, phác họa một bức tranh sống động về sự thiếu nghiêm túc trong học tập.

Đặc biệt, hai câu thơ “Đồng nổi đâu đây la liệt đảo, / Ma men chi đấy tít mù say” sử dụng thủ pháp cường điệu, phóng đại, ví học trò ngủ gật như người lên đồng, say rượu. Hình ảnh này vừa tạo tiếng cười trào phúng, vừa nhấn mạnh sự vô kỷ luật, thiếu tập trung trong học hành. Tiếp đó, hình ảnh liên tưởng đến “Chu Y” – thần áo đỏ gật đầu báo câu hay – được tác giả sử dụng để mỉa mai: học trò tưởng gật đầu vì câu hay nhưng thực chất chỉ là ngủ mê, học đối phó, học hình thức. Qua đó, tác giả bộc lộ thái độ trào phúng, vừa cười cợt vừa mỉa mai, nhấn mạnh tính giáo dục trong tiếng cười.

Về nghệ thuật, bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, bố cục chặt chẽ, cân đối. Tuy nhiên, ngôn ngữ lại dân dã, gần gũi với đời sống học trò, có khẩu ngữ và hình ảnh sinh động. Việc kết hợp giữa thể thơ cổ điển với lối diễn đạt đời thường, hài hước đã tạo nên phong cách trào phúng độc đáo của Nguyễn Khuyến, vừa duyên dáng vừa sắc sảo.

Về giá trị tư tưởng, bài thơ phê phán thói học lười, học hình thức, học đối phó, nhấn mạnh hậu quả xấu đối với cá nhân và xã hội. Người lười học, chỉ chú trọng hình thức sẽ không có kiến thức thực chất, kỹ năng kém, khó phát triển năng lực bản thân, đồng thời làm giảm chất lượng nguồn nhân lực, ảnh hưởng đến tiến bộ chung. Bài thơ còn gửi gắm thông điệp nhắc nhở học sinh hôm nay phải học tập nghiêm túc, ham học hỏi, coi trọng rèn luyện kiến thức và kỹ năng thực tế, không chạy theo hư danh, thành tích giả.

Bài thơ Chế học trò ngủ gật không chỉ gây cười mà còn mang giá trị giáo dục sâu sắc. Nguyễn Khuyến bằng con mắt tinh tế và giọng điệu trào phúng đã khắc họa một bức tranh sinh động về thói lười học, đồng thời gửi gắm bài học về tinh thần học tập nghiêm túc, ham học hỏi. Bài thơ vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay, nhắc nhở mỗi người, đặc biệt là học sinh, cần biết trân trọng kiến thức, rèn luyện bản thân để trưởng thành và đóng góp cho xã hội.

Bài tham khảo Mẫu 2

Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Ông có những đóng góp nổi bật cho nền văn học dân tộc đặc biệt là mảng thơ nôm, thơ viết về làng quê, thơ trào phúng. Thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bạn bè phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực. Châm biếm đả kích bọn thực dân xâm lược, bọn quan lại bán nước thể hiện tấm lòng yêu ái đối với dân với nước. Bài thơ “Chế học trò ngủ gật’’ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Khuyến. Tác phẩm viết ra nhằm mục đích nói về một học trò lười biếng ngủ gật trong lúc học cạnh thầy. Đây là bức tranh hài hước viết về cuộc sống học đường ở thời kỳ phong kiến, mang đến nhiều màu sắc mới trong phong cách sáng tác thơ của ông:

“Trò trẹt chi bay học cạnh thầy,
Gật gà gật gưỡng nực cười thay!
Giọng khê nồng nặc không ra tiếng,
Mắt lại lim dim nhấp đã cay.
Đồng nổi đâu đây la liệt đảo,
Ma men chi đấy tít mù say.
Dễ thương bắt chước Chu Y đó,
Quyển có câu thần vậy gật ngay.”

Mở đầu bài thơ bằng cách miêu tả lớp học đầy vui tươi, khi giáo viên đang giảng bài:

“Trò trẹt chi bay học cạnh thầy,
Gật gà gật gưỡng nực cười thay!”

Đó là cảnh lớp học vui tươi với việc sử dụng thể thơ lục bát truyền thống quen thuộc, Nguyễn Khuyến đã đem đến cảm giác gần gũi, dễ hiểu về không khí lớp học. Thế nhưng, trong không khí nghiêm túc đó lại có một cậu học trò ngủ gật. Nguyễn Khuyến đã sử dụng các từ ngữ và hình ảnh hết sức hài hước để diễn tả lại tình huống này. “Gật gà gật gưỡng” ý muốn nói đến trạng thái mơ ngủ, không tỉnh táo khi học bài của cậu học trò nhỏ. Đây là cách sử dụng từ ghép đẳng lập, là cách viết tắt của “ngủ gà, ngủ gật”. Nguyễn Khuyến đã sử dụng từ hài hước, hóm hỉnh mang đến những điệu cười khoái chí cho người đọc.

“Giọng khê nồng nặc không ra tiếng
Mắt lại lim dim nhấp đã cay.
Đồng nổi đâu đây la liệt đảo
Ma men chi đấy tít mù say.”

Giáo viên phát hiện ra cậu bé ngủ trong lớp học, cố gắng đánh thức học trò đó bằng mọi cách. Tuy nhiên, cậu học trò vẫn không tỉnh dậy mà còn tiếp tục ngủ sâu hơn. Việc sử dụng các từ láy “nồng nặc”, “lim dim”, “la liệt” diễn tả trạng thái ngủ nực cười của cậu học trò. Các từ ngữ, hình ảnh ấy tạo nên sự đặc sắc trong việc miêu tả trạng thái mệt mỏi và buồn ngủ của cậu học trò. Nguyễn Khuyến đã sử dụng biện pháp nói quá trong những dòng thơ trên. Từ đó làm tăng sức gợi hình gợi cảm cho bài thơ, làm cho bài thơ trở lên có vần nhịp, nhịp điệu. Khiến cho bài thơ trở nên hóm hỉnh, khôi hài đúng như phong cách sáng tác của Nguyễn Khuyến.

“Dễ thương bắt chước Chu Y đó,
Quyển có câu thần vậy gật ngay.”

Cuối cùng, giáo viên cũng phải nhờ đến sự giúp đỡ của cả lớp mới có thể đánh thức cậu học trò ngủ gật. Nguyễn Khuyến đã sử dụng các từ ngữ và hình ảnh hài hước tạo hiệu ứng và gây tiếng cười cho độc giả. Ông đã đề cập đến việc cậu học trò bắt chước Chu Y, một nhân vật từng xuất hiện trong truyện cổ tích để trốn việc học. Từ “bắt chước” và “câu thần” thể hiện rõ điều đó. Cậu học trò đang cố tìm cách giả vờ học để đánh lừa thầy giáo. Qua đây Nguyễn Khuyến cũng thể hiện tính châm biếm và hài hước của bài thơ. Nếu như những người thầy khác sẽ cảm thấy bực mình, tức giận khi học trò của mình ngủ, không lắng nghe bài giảng của mình. Thế nhưng đến với Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến ông lại làm hoàn toàn trái ngược như vậy. Mặc dù không hài lòng với ý thức học tập của cậu học trò, thế nhưng ông không trách phạt người học trò ấy. Nhà thơ đã dùng cách của mình, hóm hỉnh trêu chọc cậu học trò để cậu nhận ra lỗi sai của mình. Đó là cách nhắc nhở nhẹ nhàng, hết sức tinh tế. Bài thơ cũng là những lời châm biếm, nhắc nhở nhẹ nhàng nhằm chỉ ra trạng thái ngủ gật trong lớp học và ý thức học tập của học sinh trong giai đoạn đấy.

Bằng việc sử dụng ngôn ngữ hài hước, hình ảnh linh hoạt gần gũi cùng các biện pháp tu từ độc đáo Nguyễn Khuyến đã mang đến tiếng cười hài hước cho độc giả. Phê phán thực trạng lười biếng và trốn học của các bạn học sinh. Bài thơ cũng là lời nhắn nhủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tập trung và chăm chỉ trong quá trình học tập.

Bài tham khảo Mẫu 3

Thơ Nguyễn Khuyến với giọng điệu nhẹ nhàng nhưng ẩn sau là những lời phê phán, châm biếm. Bài thơ “chế học trò ngủ gật” mang đến cho đọc giả tiếng cười qua những lời thơ hóm hỉnh, hài hước. Bài thơ “Chế học trò ngủ gật’’ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Khuyến. Tác phẩm viết ra nhằm mục đích nói về một học trò lười biếng ngủ gật trong lúc học cạnh thầy. Đây là bức tranh hài hước viết về cuộc sống học đường ở thời kỳ phong kiến, mang đến nhiều màu sắc mới trong phong cách sáng tác thơ của ông

Mở đầu bài thơ bằng cách miêu tả lớp học đầy vui tươi, khi giáo viên đang giảng bài:

“Trò trẹt chi bay học cạnh thầy,
Gật gà gật gưỡng nực cười thay!”

Đó là cảnh lớp học vui tươi với việc sử dụng thể thơ lục bát truyền thống quen thuộc, Nguyễn Khuyến đã đem đến cảm giác gần gũi, dễ hiểu về không khí lớp học. Thế nhưng, trong không khí nghiêm túc đó lại có một cậu học trò ngủ gật. Nguyễn Khuyến đã sử dụng các từ ngữ và hình ảnh hết sức hài hước để diễn tả lại tình huống này. “Gật gà gật gưỡng” ý muốn nói đến trạng thái mơ ngủ, không tỉnh táo khi học bài của cậu học trò nhỏ. Đây là cách sử dụng từ ghép đẳng lập, là cách viết tắt của “ngủ gà, ngủ gật”. Nguyễn Khuyến đã sử dụng từ hài hước, hóm hỉnh mang đến những điệu cười khoái chí cho người đọc.

“Giọng khê nồng nặc không ra tiếng,
Mắt lại lim dim nhấp đã cay.
Đồng nổi đâu đây la liệt đảo,
Ma men chi đấy tít mù say.”

Giáo viên phát hiện ra cậu bé ngủ trong lớp học, cố gắng đánh thức học trò đó bằng mọi cách. Tuy nhiên, cậu học trò vẫn không tỉnh dậy mà còn tiếp tục ngủ sâu hơn. Việc sử dụng các từ láy “nồng nặc”, “lim dim”, “la liệt” diễn tả trạng thái ngủ nực cười của cậu học trò. Các từ ngữ, hình ảnh ấy tạo nên sự đặc sắc trong việc miêu tả trạng thái mệt mỏi và buồn ngủ của cậu học trò. Nguyễn Khuyến đã sử dụng biện pháp nói quá trong những dòng thơ trên. Từ đó làm tăng sức gợi hình gợi cảm cho bài thơ, làm cho bài thơ trở lên có vần nhịp, nhịp điệu. Khiến cho bài thơ trở nên hóm hỉnh, khôi hài đúng như phong cách sáng tác của Nguyễn Khuyến.

“Dễ thương bắt chước Chu Y đó,
Quyển có câu thần vậy gật ngay.”

Cuối cùng, giáo viên cũng phải nhờ đến sự giúp đỡ của cả lớp mới có thể đánh thức cậu học trò ngủ gật. Nguyễn Khuyến đã sử dụng các từ ngữ và hình ảnh hài hước tạo hiệu ứng và gây tiếng cười cho độc giả. Ông đã đề cập đến việc cậu học trò bắt chước Chu Y, một nhân vật từng xuất hiện trong truyện cổ tích để trốn việc học. Từ “bắt chước” và “câu thần” thể hiện rõ điều đó. Cậu học trò đang cố tìm cách giả vờ học để đánh lừa thầy giáo. Qua đây Nguyễn Khuyến cũng thể hiện tính châm biếm và hài hước của bài thơ.

Nếu như những người thầy khác sẽ cảm thấy bực mình, tức giận khi học trò của mình ngủ, không lắng nghe bài giảng của mình. Thế nhưng đến với Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến ông lại làm hoàn toàn trái ngược như vậy. Mặc dù không hài lòng với ý thức học tập của cậu học trò, thế nhưng ông không trách phạt người học trò ấy. Nhà thơ đã dùng cách của mình, hóm hỉnh trêu chọc cậu học trò để cậu nhận ra lỗi sai của mình. Đó là cách nhắc nhở nhẹ nhàng, hết sức tinh tế. Bài thơ cũng là những lời châm biếm, nhắc nhở nhẹ nhàng nhằm chỉ ra trạng thái ngủ gật trong lớp học và ý thức học tập của học sinh trong giai đoạn đấy.

Bằng việc sử dụng ngôn ngữ hài hước, hình ảnh linh hoạt gần gũi cùng các biện pháp tu từ độc đáo Nguyễn Khuyến đã mang đến tiếng cười hài hước cho độc giả. Phê phán thực trạng lười biếng và trốn học của các bạn học sinh. Bài thơ cũng là lời nhắn nhủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tập trung và chăm chỉ trong quá trình học tập.


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 9 - Kết nối tri thức - Xem ngay

Tham Gia Group Dành Cho Lớp 9 - Ôn Thi Vào Lớp 10 Miễn Phí