Viết bài văn nêu cảm nghĩ của về 2 khổ thơ đầu của bài thơ "Nhớ mùa Vu Lan xưa" của tác giả Hoàng Anh Tuấn. lớp 9>
Hai khổ thơ đầu trong Nhớ mùa Vu Lan xưa của Hoàng Anh Tuấn vẽ nên bức tranh Vu Lan xưa vừa thân thương, vừa trang nghiêm
GÓP Ý HAY - NHẬN NGAY QUÀ CHẤT
Gửi góp ý cho Loigiaihay.com và nhận về những phần quà hấp dẫn
Dàn ý
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát nội dung chính của đoạn thơ
2. Thân bài
a. Cảm nhận về khổ thơ (1)
- “níu váy mẹ lên chùa”, “vận tứ thân mẹ chít khăn mỏ quạ” => Hình ảnh mẹ trong trang phục truyền thống, toát lên sự trang nghiêm, tôn kính.
- Hành động lễ Vu Lan: “đội mâm oản vàng hương và ngũ quả”, “môi quết trầu cười đen nhức hạt na” => thể hiện phong tục truyền thống, sự hiếu thảo, bình dị nhưng đậm đà văn hóa dân gian.
- Nghệ thuật: miêu tả chi tiết sinh động, vừa tả hình vừa gợi cảm xúc, tạo hình ảnh gần gũi, ấm áp về mẹ.
b. Cảm nhận về khổ thơ (2)
- Không gian chùa làng: “chùa làng xưa trầm mặc dưới bóng đa”, “đồng vụ chiêm đơm hương tràn cảnh gió” => gợi lên khung cảnh thanh tĩnh, cổ kính, hòa quyện thiên nhiên và con người.
- Hình ảnh tác giả và sư thầy: “sư thầy cài ngực tôi bông hồng đỏ” => tượng trưng cho lòng hiếu thảo, tình cảm thiêng liêng, truyền thống Vu Lan.
- Nghệ thuật: kết hợp tả cảnh, tả người và biểu tượng bông hồng đỏ => cảm xúc trang nghiêm, ấm áp và sâu lắng.
c. Nhận xét
- Hai khổ thơ gợi lên hình ảnh Vu Lan xưa vừa thân thương, vừa thiêng liêng, vừa mang đậm nét văn hóa truyền thống.
- Thể hiện tình mẫu tử, lòng biết ơn và sự trân trọng truyền thống, làm nổi bật cảm xúc hoài niệm của tác giả.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị nghệ thuật và cảm xúc của hai khổ thơ
Bài siêu ngắn Mẫu 1
Hai khổ thơ đầu trong Nhớ mùa Vu Lan xưa của Hoàng Anh Tuấn vẽ nên bức tranh Vu Lan xưa vừa thân thương, vừa trang nghiêm. Khổ thơ đầu miêu tả mẹ trong trang phục truyền thống, “vận tứ thân mẹ chít khăn mỏ quạ”, đội mâm oản vàng, hương và ngũ quả, cười rạng rỡ với hạt na. Qua những chi tiết giản dị nhưng sinh động, tác giả làm nổi bật sự chu toàn, hiếu thảo và tình thương của mẹ. Khổ thơ thứ hai mở rộng không gian chùa làng: “chùa làng xưa trầm mặc dưới bóng đa”, “đồng vụ chiêm đơm hương tràn cảnh gió”, kết hợp hình ảnh sư thầy cài bông hồng đỏ, tượng trưng cho lòng hiếu thảo. Nghệ thuật tả cảnh kết hợp tả người tạo nên cảm xúc ấm áp, trang nghiêm, đồng thời gợi nhớ giá trị văn hóa truyền thống, khơi dậy trong người đọc nỗi hoài niệm về ngày lễ Vu Lan xưa.
Bài siêu ngắn Mẫu 2
Khổ thơ (1) và (2) trong Nhớ mùa Vu Lan xưa nổi bật nhờ hình ảnh mẹ và cảnh chùa làng yên bình, trang nghiêm. Hình ảnh mẹ “niu váy mẹ lên chùa”, “môi quết trầu cười đen nhức hạt na” vừa gần gũi, đời thường, vừa thể hiện sự chu toàn, hiếu thảo. Khổ thơ thứ hai vẽ cảnh chùa trầm mặc, bóng đa, đồng chiêm ngát hương, đồng thời hình ảnh sư thầy cài bông hồng đỏ trên ngực tác giả mang ý nghĩa biểu tượng cho lòng biết ơn và tình mẫu tử. Nghệ thuật kết hợp tả người, tả cảnh và biểu tượng đã tạo nên cảm xúc trang nghiêm nhưng ấm áp. Hai khổ thơ không chỉ tái hiện ngày lễ Vu Lan xưa mà còn nhắc nhở con người về tình mẫu tử, lòng hiếu thảo và sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống.
Bài siêu ngắn Mẫu 3
Hai khổ thơ đầu của Nhớ mùa Vu Lan xưa mang đến hình ảnh Vu Lan xưa vừa sinh động, vừa sâu lắng. Khổ thơ đầu tập trung vào mẹ, từ trang phục “vận tứ thân chít khăn mỏ quạ” đến hành động đội mâm oản, quết trầu cười với hạt na, thể hiện sự hiếu thảo và tình thương bao la. Khổ thơ thứ hai mở rộng không gian chùa làng, “trầm mặc dưới bóng đa”, “đồng vụ chiêm đơm hương tràn cảnh gió”, kết hợp hình ảnh sư thầy cài bông hồng đỏ, tượng trưng cho lòng biết ơn. Nghệ thuật miêu tả chi tiết, kết hợp tả cảnh và biểu tượng tạo nên cảm xúc trang nghiêm, ấm áp. Hai khổ thơ không chỉ gợi nhớ Vu Lan xưa mà còn nhấn mạnh tình mẫu tử, lòng hiếu thảo và giá trị truyền thống văn hóa dân tộc.
Bài tham khảo Mẫu 1
Bài thơ Nhớ mùa Vu Lan xưa của Hoàng Anh Tuấn gợi lên trong lòng người đọc những kỷ niệm đầy thân thương về ngày lễ Vu Lan – ngày báo hiếu thiêng liêng trong văn hóa dân tộc. Hai khổ thơ đầu tiên mở ra bức tranh sinh động về hình ảnh mẹ và không gian chùa làng, vừa gợi cảm giác gần gũi, ấm áp, vừa thể hiện sự trang nghiêm, sâu lắng của ngày lễ, đồng thời nhấn mạnh tình mẫu tử và nét đẹp truyền thống.
Khổ thơ đầu tiên, với những câu: “Mùa Vu lan niu váy mẹ lên chùa / Vận tứ thân mẹ chít khăn mỏ quạ / Đội mâm oản vàng hương và ngũ quả / Môi quết trầu cười đen nhức hạt na”, khắc họa hình ảnh mẹ chuẩn bị đi lễ. Từng chi tiết trang phục và cử chỉ – từ “vận tứ thân” đến “chít khăn mỏ quạ” – không chỉ thể hiện sự chỉnh tề, trang nghiêm mà còn gợi lên tình yêu thương, sự chu toàn của mẹ. Hình ảnh mẹ đội mâm lễ, quết trầu cười với những hạt na vừa miêu tả sinh hoạt đời thường, vừa làm nổi bật không khí lễ Vu Lan truyền thống, đậm chất văn hóa dân gian. Nghệ thuật miêu tả kết hợp tả người và tả hành động khiến mẹ hiện lên gần gũi, ấm áp nhưng vẫn toát lên vẻ trang nghiêm và thanh cao.
Khổ thơ thứ hai mở rộng không gian, tạo nên bức tranh chùa làng xưa đầy yên bình: “Chùa làng xưa trầm mặc dưới bóng đa / Đồng vụ chiêm đơm hương tràn cảnh gió / Sư thầy cài ngực tôi bông hồng đỏ”. Cảnh chùa, bóng đa, cánh đồng lúa tràn hương gợi lên sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người, vừa tĩnh lặng, cổ kính, vừa tràn đầy sức sống. Hình ảnh sư thầy cài bông hồng đỏ trên ngực tác giả là biểu tượng cho lòng hiếu thảo, cho tình cảm thiêng liêng giữa con cái và cha mẹ, đồng thời nhấn mạnh giá trị nhân văn của lễ Vu Lan. Nghệ thuật tả cảnh kết hợp tả người và sử dụng biểu tượng đã khiến khổ thơ vừa sinh động, vừa giàu cảm xúc, trang nghiêm nhưng vẫn gần gũi với người đọc.
Hai khổ thơ đầu tiên của bài thơ tạo nên bức tranh Vu Lan xưa vừa thân thương vừa trang nghiêm. Hình ảnh mẹ và chùa làng không chỉ gợi nhớ những phong tục, nghi lễ truyền thống mà còn nhắc nhở con người về tình mẫu tử, lòng hiếu thảo và sự trân trọng những giá trị văn hóa. Những chi tiết đời thường nhưng giàu sức gợi này khiến người đọc cảm nhận sâu sắc tình cảm gia đình, sự gắn bó giữa con người và truyền thống, đồng thời khơi dậy nỗi hoài niệm về những ngày Vu Lan xưa.
Như vậy, khổ thơ (1) và (2) trong Nhớ mùa Vu Lan xưa vừa giàu hình ảnh, vừa chứa đựng cảm xúc sâu lắng, vừa nhấn mạnh giá trị nhân văn. Chúng vẽ nên không gian Vu Lan vừa trang nghiêm, vừa ấm áp, nhắc nhở con người về tình mẫu tử và những nét đẹp văn hóa truyền thống cần gìn giữ trong cuộc sống hiện đại.
Bài tham khảo Mẫu 2
Bài thơ Nhớ mùa Vu Lan xưa của Hoàng Anh Tuấn mang đến cho người đọc những cảm xúc sâu lắng về ngày lễ Vu Lan – ngày báo hiếu thiêng liêng, gợi nhắc tình mẫu tử và nét đẹp văn hóa truyền thống. Hai khổ thơ đầu tiên đặc biệt gây ấn tượng bởi cách tác giả miêu tả hình ảnh mẹ và không gian chùa làng, vừa sinh động vừa giàu tính biểu tượng, khiến người đọc như được sống lại những ngày lễ Vu Lan xưa đầy thân thương và trang nghiêm.
Khổ thơ đầu tiên mở ra với hình ảnh mẹ: “Mùa Vu lan niu váy mẹ lên chùa / Vận tứ thân mẹ chít khăn mỏ quạ”. Qua những chi tiết này, tác giả không chỉ miêu tả trang phục truyền thống mà còn gợi lên sự trang nghiêm, tôn kính của mẹ trong ngày lễ. “Vận tứ thân” và “chít khăn mỏ quạ” là những hình ảnh sinh động, tinh tế, làm nổi bật sự chu toàn, chỉnh tề trong cách mẹ chuẩn bị đi lễ. Hình ảnh mẹ “đội mâm oản vàng hương và ngũ quả”, “môi quết trầu cười đen nhức hạt na” vừa tả chi tiết lễ vật truyền thống, vừa thể hiện niềm hân hoan, bình dị nhưng tràn đầy sức sống của ngày lễ. Nghệ thuật tả người kết hợp chi tiết đời thường đã khắc họa rõ ràng sự hiếu thảo, âm thầm hy sinh, đồng thời gợi cảm giác gần gũi, ấm áp trong tình mẫu tử.
Khổ thơ thứ hai mở rộng không gian, đưa người đọc vào cảnh chùa làng xưa: “Chùa làng xưa trầm mặc dưới bóng đa / Đồng vụ chiêm đơm hương tràn cảnh gió”. Tác giả vẽ nên bức tranh thiên nhiên hài hòa với con người, cảnh vật vừa cổ kính, tĩnh lặng, vừa đầy sinh khí. Hình ảnh sư thầy “cài ngực tôi bông hồng đỏ” không chỉ là chi tiết nghi lễ Vu Lan mà còn mang ý nghĩa biểu tượng: bông hồng đỏ tượng trưng cho lòng hiếu thảo, tình thương và sự kết nối giữa con cái với cha mẹ. Nghệ thuật tả cảnh kết hợp tả người và biểu tượng khiến khổ thơ vừa sinh động, vừa sâu lắng, tạo nên cảm xúc trang nghiêm nhưng ấm áp, thấm đẫm nhân văn.
Hai khổ thơ đầu tiên đã vẽ nên bức tranh Vu Lan xưa vừa gần gũi vừa thiêng liêng. Qua hình ảnh mẹ và cảnh chùa, tác giả nhắc nhở người đọc về tình mẫu tử, về lòng hiếu thảo và sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống. Những chi tiết giản dị nhưng giàu sức gợi này khiến mỗi người đọc cảm nhận được sự gắn bó giữa con người với cha mẹ, giữa con người với truyền thống, đồng thời khơi dậy niềm hoài niệm về quá khứ.
Như vậy, khổ thơ (1) và (2) trong Nhớ mùa Vu Lan xưa không chỉ giàu hình ảnh và cảm xúc mà còn chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc. Chúng vẽ nên một không gian Vu Lan vừa thân thương, vừa trang nghiêm, vừa đậm chất văn hóa dân gian, nhắc nhở con người giữ gìn tình cảm gia đình, biết trân trọng mẹ cha và những giá trị truyền thống quý báu.
Bài tham khảo Mẫu 3
Bài thơ Nhớ mùa Vu lan xưa của Hoàng Anh Tuấn gợi lên trong lòng người đọc những kỷ niệm về ngày lễ Vu Lan – ngày báo hiếu thiêng liêng, đồng thời thấm đẫm tình mẫu tử. Hai khổ thơ đầu tiên của bài thơ đặc biệt để lại ấn tượng sâu sắc nhờ cách tác giả khắc họa hình ảnh mẹ và không gian chùa làng xưa. Qua đó, người đọc cảm nhận được sự trang nghiêm, ấm áp và đậm đà nét đẹp truyền thống của ngày lễ Vu Lan.
Khổ thơ đầu tiên mở ra bằng hình ảnh mẹ “niu váy mẹ lên chùa”, “vận tứ thân mẹ chít khăn mỏ quạ”. Những câu thơ này không chỉ tả mẹ trong trang phục truyền thống mà còn gợi lên sự trang nghiêm, tôn kính trong từng bước đi của mẹ. Từ chi tiết “vận tứ thân” đến “chít khăn mỏ quạ”, tác giả tỉ mỉ miêu tả trang phục, cử chỉ, tạo nên hình ảnh mẹ vừa bình dị vừa thanh cao. Hình ảnh mẹ đội mâm oản vàng, hương và ngũ quả, cùng “môi quết trầu cười đen nhức hạt na” cho thấy không chỉ sự hiếu thảo mà còn là niềm hân hoan, đời sống văn hóa dân gian tràn đầy sinh khí. Nghệ thuật tả người kết hợp những chi tiết rất đời thường nhưng giàu sức gợi đã làm nổi bật hình ảnh mẹ với tình thương bao la, âm thầm hy sinh, đồng thời khắc họa phong tục truyền thống gắn với lễ Vu Lan.
Khổ thơ thứ hai mở rộng không gian, đưa người đọc vào chốn chùa làng xưa: “chùa làng xưa trầm mặc dưới bóng đa”, “đồng vụ chiêm đơm hương tràn cảnh gió”. Cảnh vật hiện lên vừa cổ kính, tĩnh lặng vừa tràn đầy sức sống, như hòa quyện con người với thiên nhiên. Hình ảnh sư thầy “cài ngực tôi bông hồng đỏ” không chỉ là chi tiết cụ thể về nghi lễ Vu Lan mà còn mang ý nghĩa biểu tượng: bông hồng đỏ tượng trưng cho tình thương, sự báo hiếu và lòng biết ơn. Qua đó, tác giả không chỉ gợi nhớ những ngày lễ Vu Lan xưa mà còn nhấn mạnh tình cảm thiêng liêng giữa con cái và cha mẹ, giữa con người với truyền thống. Nghệ thuật tả cảnh kết hợp tả người và biểu tượng trong khổ thơ tạo nên cảm xúc trang nghiêm, sâu lắng, làm cho bức tranh Vu Lan vừa sinh động vừa thấm đẫm ý nghĩa nhân văn.
Hai khổ thơ đầu tiên trong bài thơ không chỉ gợi lên hình ảnh Vu Lan xưa thân thương, trang nghiêm mà còn làm nổi bật tình mẫu tử và nét đẹp văn hóa truyền thống. Những hình ảnh giản dị nhưng đầy sức gợi đã khơi dậy trong người đọc niềm thương yêu, kính trọng mẹ và sự trân trọng những giá trị truyền thống. Qua đó, tác giả không chỉ hoài niệm về quá khứ mà còn nhắc nhở mỗi người về lòng hiếu thảo, về sự kết nối giữa con người và truyền thống văn hóa dân tộc.
Như vậy, khổ thơ (1) và (2) của Nhớ mùa Vu lan xưa là bức tranh vừa sống động vừa sâu lắng về ngày lễ Vu Lan, về mẹ và về chùa làng xưa. Chúng mang đến cho người đọc cảm xúc ấm áp, vừa hoài niệm, vừa tôn kính, đồng thời nhắc nhở con người giữ gìn tình cảm gia đình và nét đẹp văn hóa truyền thống trong đời sống hiện đại. Đây chính là giá trị nghệ thuật và nhân văn đặc sắc mà Hoàng Anh Tuấn muốn gửi gắm qua bài thơ.


- Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích 2 khổ thơ đầu của văn bản Bàn tay mẹ lớp 9
- Viết đoạn nghị luận (150 chữ) về vẻ đẹp của khổ thơ sau: Ngồi lại đây trong nỗi nhớ niềm quên/ Bao giấc mơ của một thời đánh giặc lớp 9
- Viết một bài văn nghị luận (khoảng 500 chữ) phân tích chủ đề và đặc sắc nghệ thuật trong đoạn thơ sau: "Ba mươi năm tiếng súng đã lặng yên ... Như ban đầu miền đất mới khai sinh" lớp 9
- Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ: Cánh đồng nào cũng chôn vàng, giấu bạc/ Bờ biển nào cũng ngời chói ngọc châu... lớp 9
- Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích hai khổ thơ đầu trong bài thơ "Hương vị quê nhà". lớp 9
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 9 - Kết nối tri thức - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục
- Viết bài văn phân tích nhân vật người bà trong đoạn trích Bát canh của bà, Vũ Tú Nam lớp 9
- Viết bài văn nêu cảm nghĩ của về 2 khổ thơ đầu của bài thơ "Nhớ mùa Vu Lan xưa" của tác giả Hoàng Anh Tuấn. lớp 9
- Viết đoạn văn phân tích nhân vật người anh trong văn bản Ga tàu tuổi thơ (Vũ Thị Huyền Trang) lớp 9
- Phân tích nhân vật chàng Khờ trong tác phẩm “Đá trổ bông” của tác giả Nguyễn Ngọc Tư lớp 9
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc lớp 9
- Viết bài văn phân tích nhân vật người bà trong đoạn trích Bát canh của bà, Vũ Tú Nam lớp 9
- Viết bài văn nêu cảm nghĩ của về 2 khổ thơ đầu của bài thơ "Nhớ mùa Vu Lan xưa" của tác giả Hoàng Anh Tuấn. lớp 9
- Viết đoạn văn phân tích nhân vật người anh trong văn bản Ga tàu tuổi thơ (Vũ Thị Huyền Trang) lớp 9
- Phân tích nhân vật chàng Khờ trong tác phẩm “Đá trổ bông” của tác giả Nguyễn Ngọc Tư lớp 9
- Hãy viết một bài văn trình bày suy nghĩ của em về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc lớp 9