Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống>
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 8 tất cả các môn - Chân trời sáng tạo
Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên
Bài mẫu 1
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề.
Đề thơ là một phong tục của Trung Quốc xưa, đến đời Đường đã rất thịnh hành. Khách du sơn ngoạn thủy, thăm thú thắng cảnh đền đài, hứng làm thơ, vung bút đề thơ để lưu bút tích và bày tỏ cảm xúc, chí khí của mình. Ta đã biết tương truyền bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Liệu để ở lầu Hoàng Hạc đã làm thơ tiên Lý Bạch bối rối. Hoặc Đề Đô thành nam trang của Thôi Hộ đề trên cánh của một trang văn vắng bóng người dep. Ở nước ta, tục này cũng thịnh hành, trên nhiều hang động đẹp đều lưu bút tích thi nhân.
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xa hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề.
Sầm Nghi Đống là thái thú đất Diễn Châu, Trung Quốc, tùy tướng của Tôn Sĩ Nghị trong cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Ông được giao giữ đồn Khương Thượng, Đống Đa. Khi bị quân Tây Sơn đánh, ông không chống cự được nên đã thắt cổ tự tử. Để giữ mối quan hệ bang giao hai nước, Quang Trung cho người Hoa lập miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm ngày nay. Theo sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, thì ghi chú có hơi khác: Đống được giao trấn thủ Ngọc Hồi, đồn Ngọc Hồi thất thủ, Đống tự tử. Về sau có đền thờ ở gò láng Ngọc Hồi.
Nhân một dịp đi qua, Hồ Xuân Hương đã làm bài thơ này. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương đã biểu thị một cái nhìn thiếu trân trọng đối với ngôi đền:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Những ai được lập đền, dù là quân giặc, đều được coi là thần, đề mọi người đến thắp hương cúng bái, cầu vọng. Nhưng Hồ Xuân Hương thì chỉ ghé mắt trông ngang. Ghé mắt, theo Từ điển Tiếng Việt, là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn, chỉ thuần túy là động tác, không hàm ý kính trọng. Ghé mắt trông ngang chớ không phải trông lên, đã thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược thất bại. Đền Thái, thú đứng cheo leo hẳn là đền xây trên gò, và người ta không dễ trông ngang. Rõ ràng Hồ Xuân Hương cố tình chọn một cái nhìn coi thường đối với vị Thái thú ở nơi tha hương này. Chữ cheo leo là một từ đặc sắc, nó chỉ một thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ ụp xuống. Chữ kìa cũng hàm ý bất kính, bởi nó kèm theo các động tác chỉ trỏ, mà đối với các nơi đền đài linh thiêng người đến viếng không được nói to, giơ tay chỉ trỏ như đối với đồ vật. Với hai câu thơ ấy, Hồ Xuân Hương đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.
Hồ Xuân Hương không chỉ nhìn ngang chỉ trỏ trước một ngôi đền, bà lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ nữa:
Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu
Cái ý nghĩa đổi phận làm trai đã thể hiện cái mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến đã áp đặt vào ý thức nhà thơ. Nhưng mặt khác, nó cũng thế hiện nhu cầu đổi phận, không chịu an phận của bà. Cái cách bà tự xưng là đây để đổi lại với Sầm Nghi Đống là đấy, thì dù bà chưa đổi phận được, bà cũng đã rất coi thường vị nam nhi họ sầm. Câu kết há bấy nhiêu có thể nghĩ rằng Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm gấp nhiều lần, so với sự nghiệp của sầm, song đúng hơn, nên biểu hiện một lời dè bỉu: sự nghiệp của ông có bấy nhiêu thôi ư, nó quá ít đối với một đấng nam nhi đấy!
Bài thơ là một khái vọng được bình đẳng, khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ. Thái độ "bất kính” của bà là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ, thách thức với các "sự nghiệp anh hùng" của nam nhi, thách thức đối với thần linh. Bài thơ thể hiện mạnh mẽ nhu cầu giải phóng cá tính của con người, bất chấp các ước lệ ràng buộc của xã hội phong kiến.
Bài mẫu 2
Một trong nữ thi sĩ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam phải kể đến Hồ Xuân Hương. Bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống của bà gửi gắm giá trị nội dung và nghệ thuật sâu sắc.
Đầu tiên, Sầm Nghi Đống là một tướng giặc theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm lược, chiếm đóng kinh thành Thăng Long, giữ chức thái thú, được giao chấn thủ đồn Ngọc Hồi. Sau khi nhà vua Quang Trung triệt phá đồn Ngọc Hồi (tháng Giêng năm 1978), Sầm Nghi Đống đã tự vẫn. Sau này, khi việc bang giao trở lại bình thường, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ. Với Hồ Xuân Hương, viên tướng bại trận này không xứng đáng được thờ trong đền. Hai câu đầu giới thiệu hoàn cảnh khi đến đền thờ Sầm Nghi Đống:
“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo”
Ở đây, “ghé mắt” được hiểu là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn. Vậy nên “ghé mắt trông ngang” mà không phải là “trông lên” thể hiện một thái độ coi thường. Tiếp đến, tác giả khắc họa hình ảnh ngôi đền - đang ở vị thế là “đền Thái thú đứng cheo leo” cho thấy thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ xuống. Chữ “kìa” nhằm gợi ra động tác chỉ trỏ, không được tôn trọng. Thái độ trong bài thơ là coi thường, bất kính. Hai câu thơ mở đầu đã bác bỏ hoàn toàn tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.
Hai câu thơ tiếp theo, Hồ Xuân Hương đã bộc lộ suy nghĩ của bản thân:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu”
Ý nghĩ đổi phận làm trai thể hiện thái độ mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến. Tuy nhiên, ở đây còn được hiểu là thái độ không an phận của Hồ Xuân Hương. Nếu như có thể đổi phận làm trai, nhà thơ tự cho mình có thể làm được sự nghiệp lớn lao, trở thành bậc anh hùng.
Bài thơ thể hiện được tư tưởng mới mẻ, hiếm có trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, cho thấy cái tôi mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương. Tác giả đã sử dụng thủ pháp trào phúng nói giễu, cùng với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã thể hiện được nội dung của bài thơ.
Đề đền Sầm Nghi Đống là một bài thơ mang đậm phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương.
Bài mẫu 3
Hồ Xuân Hương có nhiều tác phẩm hay, trong đó có thể kể đến bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống.
“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu”
Ở hai câu thơ đầu, tác giả bộc lộ thái độ khi đến đền Sầm Nghi Đống qua hành động “ghé mắt, trông ngang”. Những từ ngữ đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng cần có của một ngôi đền, thể hiện thái độ của tác giả là bất kính, xem thường và giễu cợt với kẻ xâm lược thất bại. Nguyên nhân của thái độ trên là do Sầm Nghi Đống là tướng giặc, theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm lược, chiếm đóng kinh thành Thăng Long, giữ chức thái thú, được giao chấn thủ đồn Ngọc Hồi. Sau khi vua Quang Trung triệt phá đồn Ngọc Hồi (tháng Giêng năm 1978), Sầm Nghi Đống tự vẫn. Sau này, khi việc bang giao trở lại bình thường, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ. Nhưng với Hồ Xuân Hương thì Sầm Nghi Đống không xứng đáng được lập đền thờ ở đây.
Với hai câu thơ cuối, Hồ Xuân Hương giả định nếu được làm phận trai, thì tin chắc sự nghiệp anh hùng sẽ không ít ỏi, thất bại như Sầm Nghi Đống. Từ đó, nhà thơ muốn bộc lộ suy nghĩ không chấp nhận an phận, khao khát được lập nên sự nghiệp vẻ vang như đấng nam nhi. Bên cạnh đó, tác giả cũng muốn thể hiện thái độ coi thường, đối với sự nghiệp của viên tướng Sầm Nghi Đống.
Bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống được sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt với giọng điệu, cách nhìn đa chiều cho thấy một lối viết văn trào phúng tài hoa.
Bài mẫu 4
Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ nổi tiếng. Một trong những tác phẩm hay của bà có thể kể đến Đề đền Sầm Nghi Đống.
Trước hết, Sầm Nghi Đống là tướng giặc theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm lược, chiếm đóng kinh thành Thăng Long, giữ chức thái thú, được giao chấn thủ đồn Ngọc Hồi. Sau khi vua Quang Trung triệt phá đồn Ngọc Hồi (tháng Giêng năm 1978), Sầm Nghi Đống đã tự vẫn. Sau này, khi việc bang giao trở lại bình thường, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ. Tuy nhiên, theo tác giả bài thơ, viên tướng bại trận này không xứng đáng được thờ trong đền.
“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo”
Cụm từ “ghé mắt” được hiểu là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn. “Ghé mắt trông ngang” mà không phải là “trông lên” thể hiện một thái độ coi thường. Hình ảnh “đền Thái thú đứng cheo leo” cho thấy thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ xuống. Chữ “kìa” gợi ra động tác chỉ trỏ, không được tôn trọng. Rõ ràng, thái độ được bộc lộ ở đây là coi thường, bất kính. Hai câu thơ mở đầu đã bác bỏ hoàn toàn tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.
Ở hai câu thơ tiếp theo, Hồ Xuân Hương lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ trong đền:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.”
Ý nghĩ đổi phận làm trai thể hiện thái độ mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến. Nhưng mặt khác, nó còn thể hiện suy nghĩ không an phận của tác giả. Nếu như có thể đổi phận làm trai, Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm được sự nghiệp lớn lao, trở thành bậc anh hùng. Từ đó, tác giả muốn chế giễu, phê phán tướng giặc Sầm Nghi Đống chỉ có sự nghiệp bấy nhiêu thôi.
Có thể thấy, bài thơ bộc lộ mong muốn được bình đẳng với phụ nữ, khát vọng lập nên sự nghiệp lớn lao. Thái độ “bất kính” trong bài thơ dường như là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ. Bài thơ thể hiện tư tưởng mới mẻ, hiếm có trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, cho thấy cái tôi mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương. Tác giả đã sử dụng thủ pháp trào phúng nói giễu, cùng với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã thể hiện được nội dung của bài thơ.
Đề đền Sầm Nghi Đống là một bài thơ giàu giá trị, mang đậm phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương.
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 8 - Chân trời sáng tạo - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục