Phân tích bài thơ Chạy giặc>
Có những tác phẩm văn chương bất tử, khi nó trở thành chứng nhân lịch sử, gắn liền với nỗi vui, buồn của một dân tộc. "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu là một bài thơ như thế
Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 8 tất cả các môn - Chân trời sáng tạo
Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên
Dàn ý
I. Mở bài:
- Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác: Năm 1859, thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu viết bài Chạy giặc.
- Dẫn đề (ghi lại bài thơ).
- Chuyển mạch: phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
II. Thân bài:
1. Hai câu đề:
- Từ chính xác, gợi tả, hình ảnh thực, sinh động: tan chợ, vừa, tiếng súng Tây, cờ thế, phút sa tay.
- Tiếng súng của giặc Pháp đột ngột nổ vang, phá tan cuộc sống yên lành của nhân dân ta và đẩy nước nhà đến chỗ nguy nan, thất bại hoàn toàn.
- Cảm xúc mở đầu bài thơ: bàng hoàng, tuyệt vọng.
2. Hai câu thực:
- Biện pháp ẩn dụ, đảo ngữ, những trạng từ gợi hình ảnh loạn li, tan tác của nhân dân ta: lơ xơ, dáo dác.
- Cách ngắt nhịp chẵn - lẻ của thơ Đường luật thể hiện lời than thở xót xa:
Bỏ nhà / lũ trẻ / lơ xơ chạy,
Mất ổ / đàn chim / dáo dác bay.
- Nỗi khổ của nhân dân ta trong cảnh chạy giặc.
3. Hai câu luận:
- Biện pháp đảo ngữ được tiếp tục sử dụng, hình ảnh gợi tả: quê hương thân yêu Bến Nghé, Đồng Nai, bị giặc thiêu huỷ, cướp bóc, của tiền tan bọt nước, tranh ngói nhuốm màu mây.
- Sự tố cáo tội ác của giặc vừa cụ thể vừa khái quát bằng giọng thơ u uất, căm hờn.
- Tội ác dã man của giặc xâm lược.
4. Hai câu kết:
- Ngôn ngữ châm biếm sắc cạnh (rày đâu vắng, nỡ để dân đen), than oán triều đình nhà Nguyễn sợ giặc, bỏ mặc dân tình khổ ải.
- Nỗi cảm khái trước cảnh điêu linh của nhân dân.
III. Kết luận:
- Giá trị hiện thực: tái hiện cảnh chạy giặc của người dân trong những ngày thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Bộ.
- Giá trị tư tưởng, tình cảm: biểu lộ lòng yêu nước, thương dân tha thiết, lòng căm thù giặc xâm lược bạo tàn.
Bài mẫu 1
Có những tác phẩm văn chương bất tử, khi nó trở thành chứng nhân lịch sử, gắn liền với nỗi vui, buồn của một dân tộc. "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu là một bài thơ như thế. "Chạy giặc" là một trong những tác phẩm đầu tiên của văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Trước hoạ xâm lăng, Nguyễn Đinh Chiểu đã viết bài thơ "Chạy giặc". Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, phản ánh nỗi đau thương của dân tộc, căm thù lên án tội ác quân Pháp xâm lược và thể hiện lòng thương xót nhân dân:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Hai câu đề nói lên tình cảnh bi thảm của đất nước lúc bấy giờ. “Tiếng súng Tây" rộ lên vào thời điểm tan chợ. Nghĩa là trước lúc súng nổ, chợ búa vẫn họp bình thường. Cuộc sống hoàn toàn thanh bình, yên ổn. Lúc tan chợ là lúc bắt đầu sự sum họp của gia đình. Những đứa em ngóng anh chị, con cái đợi cha mẹ, cháu chắt đợi ông bà, cảnh hạnh phúc đầm ấm đơn sơ sẽ diễn ra ở mọi nhà với những món quà giản dị của chợ vùng quê: củ khoai, tấm bánh đúc ngô, dăm ba gióng mía, mấy nắm bỏng rang trộn mật... Cả nhà sẽ xúm quanh mâm cơm thanh đạm có bát canh chua, khúc cá kho, hay giản dị hơn chỉ có “râu tôm nấu với ruột bầu"... Tiếng súng Tây nổ đúng vào lúc đó, bất ngờ, đột ngột, dữ dội vô cùng.
Súng Tây thời ấy nổ ghê gớm lắm: “súng giặc đất rền". Nghe tiếng súng thì bọn giặc đã ở ngay bên cạnh. “Vừa nghe” thế mà cả bàn cờ thế đã hỏng “phút sa tay”. Thất bại ập đến nhanh quá. Thời gian ngắn ngủi càng tăng thêm tính chất đột ngột, bất ngờ, căng thẳng của tình thế. Và vì thế, thay cho cảnh sum họp đầm ấm là cảnh tượng lộn xộn sẻ nghé tan đàn, cảnh chạy giặc:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dác bay."
Nhà thơ rất tinh tế khi chọn hai đối tượng lũ trẻ, đàn chim nhằm miêu tả cảnh chạy loạn của nhân dân khi giặc đến. Phép đảo ngữ đặt vị ngữ trước chủ ngữ để nhấn ý các chữ "bỏ nhà" và "mất ổ" tạo nên nỗi ám ảnh bi thương về cảnh chạy giặc của dân lành. Lũ trẻ - bỏ nhà, đàn chim - mất ổ. Những sinh linh bé nhỏ, yếu ớt cần được che chở, nâng niu bốc chốc đã bị đẩy một cách tàn bạo vào cuộc chiến khốc liệt. Những đứa trẻ non nớt lẽ ra phải trở về với mái ấm gia đình, mẹ cha, vậy mà chúng như bầy chim bay dáo dác bay, lơ xơ chạy hoảng loạn giữa bầu trời đầy khói lửa.
Từ những đối tượng nhỏ bé, thân quen bên cạnh mình, nhà thơ khái quát cả không gian, thời gian cụ thể:
“Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây. ”
Còn đâu Bến Nghé, Đồng Nai trù phú sầm uất của nước Nam. Của cải bị mất mát, nhà cửa bị thiêu cháy, con cái lạc cha mẹ, và chắc là sẽ không tránh khỏi sự chết chóc đau thương:
“Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ,
ngọn đèn khuya leo lét trong lều.
Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng,
cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.”
Ai ai cũng thật xót xa, đau lòng! Bởi vậy một tấm lòng yêu nước như Nguyễn Đình Chiểu ôm xót xa, đau đớn gấp ngàn lần. Ông cất lên tiếng hỏi và cũng là lời trách móc phê phán những người có chức, có quyền, có trách nhiệm của triều đình:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?"
Không phải chỉ là một câu hỏi gay gắt và lời phê phán nghiêm khắc những trang dẹp loạn của triều đình. Hình như câu thơ còn là một tiếng khóc nghẹn tràn đầy nước mắt của con người mù lòa hết lòng yêu nước thương dân mà không thể làm gì cho dân trong cơn loạn lạc.
Một bài thơ nhỏ nhưng đã khái quát được cả một sự kiện lịch sử lớn của dân tộc, đồng thời thể hiện được tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu.
Bài mẫu 2
Có những tác phẩm văn chương bất tử khi nó trở thành chứng nhân lịch sử, nó gắn liền với nỗi vui, buồn của một dân tộc. Bài thơ “Chạy giặc" là một bài thơ mang ý nghĩa như vậy.
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Trước họa xâm lăng, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ “Chạy giặc”. Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, phản ánh nỗi đau thương của dân tộc, căm thù lên án tội ác quân Pháp xâm lược và thể hiện lòng thương xót nhân dân:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
……………………………..
Nỡ để dân đen mắc nạn này?"
Hai câu đề nói lên một cục diện bi thảm của đất nước ta hồi bấy giờ. Giặc Pháp nổ súng đánh chiếm thành Gia Định. Trận đánh diễn ra như “một bàn cờ thế" phút chốc thay đổi bất ngờ “phút sa tay". Thành Gia Định thất thủ, Đồng Nai, Bến Nghé rơi vào tay giặc, vần thơ cất lên như một lời than:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay. ”
Các từ ngữ: "vừa nghe tiếng súng Tây", “phút sa tay" làm nổi bật thời gian, sự việc diễn ra bất ngờ, nhanh chóng và nói lên nỗi kinh hoàng của nhà thơ, của nhân dân khi thành Gia Định bị giặc Tây nổ súng đánh chiếm. "Một bàn cờ thế” là một ẩn dụ, cách nói ước lệ, hàm súc về một cục diện chiến trường, một tình thế chiến tranh hồi ấy ( 1859).
Hai câu thực 3,4 tả cảnh chạy loạn, chạy giặc trong nỗi kinh hoàng của nhân dân. Các từ ngữ: “bỏ nhà", “lơ xơ chạy”, “mất ổ”, “dáo dác bay" đặc tả sự tan nát, hoảng sợ, hãi hùng. Nhà thơ lấy thế giới con người là “ lũ trẻ", lấy thế giới thiên nhiên là “đàn chim", hai hình ảnh ấy điển hình cho nỗi đau thương của nhân dân trước thảm họa đất nước quê hương bị xâm lược:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dác bay. ”
Phép đảo ngữ đặt vị ngữ trước chủ ngữ để nhân ý các chữ “bỏ nhà" và “mất ổ" tạo nên nỗi ám ảnh bi thương về cảnh chạy giặc của dân lành.
Hai câu luận 5,6 đối nhau làm hiện lên hai cảnh tang thương điêu tàn nơi Bến Nghé và Đồng Nai. Gần 200 năm về trước, Bến Nghé đã là cảnh đô hội, sầm uất, trên bến dưới thuyền buôn bán tấp nập. Đồng Nai là vựa lúa miền Nam. Thế mà chỉ trong chốc lát đã bị giặc Pháp bắn giết, đốt phá, cướp bóc rất dã man. Tài sản của nhân dân ta bị chúng cướp phá sạch sành sanh “tan bọt nước” . Nhà cửa, phố phường, làng xóm của đồng bào ta bị quân xâm lược đốt tan hoang. Lửa khói ngút trời, bao phủ một vùng rộng lớn “nhuốm màu mây”. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Chỉ bằng hai hình ảnh so sánh rất chọn lọc: "của tiền tan bọt nước”, “tranh ngói nhuốm màu mây" đã căm thù lên tội ác tày trời của quân xâm lược. Nỗi đau đớn và căm thù chứa đầy vần thơ:
"Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây. ”
Tội ác quân giặc không thể nào kể xiết! Nhà thơ tưởng như cất lời than uất hận trước tội ác ghê tởm của giặc Pháp:
“Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé,
Làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai,
Ai cứu một phường con đỏ ”
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Sau khi hạ thành Gia Định, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kì. Cả một vùng rộng lớn của đất nước ta chìm trong máu lửa. Phan Văn Trị, người bạn thân của Nguyễn Đình Chiểu đã căm giận viết khi nghe tiếng kèn giặc:
"Tò te kèn thổi tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai dạ xót xa.
Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói,
Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa... ”
(“Cảm tác’)
Hai câu kết, cảm xúc nghẹn lại bỗng trào lên, biểu lộ một tâm trạng đau đớn, lo âu. Lo âu cho tính mạng và tài sản của nhân dân ta đang bị giặc Pháp bắn giết, cướp phá dã man. Lo âu cho vận mệnh đen tối của đất nước. Câu hỏi tu từ thể hiện tình thương xót nhân dân đau khổ trước họa xâm lăng:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
“Chạy giặc” là bài ca yêu nước thể hiện sâu sắc lòng căm thù giặc Pháp và nói lên tình thương xót nhân dân trước họa xâm lăng. Những cảnh mà nhà thơ nghe thấy (tiếng súng Tây), nhìn thấy, cảm thấy (lũ trẻ lơ xơ chạy, đàn chim dáo dát bay, của tiền tan bọt nước, tranh ngói nhuốm màu mây) là những chi tiết nghệ thuật rất hiện thực mang giá trị lịch sử sâu sắc. Bài thơ “Chạy giặc” là một chứng tích về tội ác giặc Pháp trong những ngày tháng đầu chúng xâm lược đất nước ta.
Ngôn ngữ hàm súc, nghiêm trang, chứa chan tình cảm, bài thơ thể hiện tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu. Nó cho thấy tính mẫn cảm chính trị của nhà thơ yêu nước “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Với ông, “thơ là súng là gươm". (“Đọc thơ Đồ Chiểu" - Lê Anh Xuân).
Bài mẫu 3
Bài thơ "Chạy giặc" là một tác phẩm thể hiện lòng yêu nước và sự phản đối xâm lăng của người Việt Nam. Năm 1859, khi thực dân Pháp tấn công thành Gia Định, quê hương của người Việt Nam đã trải qua một thời kỳ đen tối. Nguyễn Đình Chiểu sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú để ghi lại sự kiện này trong bài thơ "Chạy giặc."
Hai câu đầu của bài thơ đã nêu lên bối cảnh thời cuộc và tình hình đất nước. Cuộc tấn công của quân Pháp đến lúc "tan chợ" được thể hiện qua câu thơ: "Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây, Một bàn cờ thế phút sa tay." Trước đây, cuộc sống yên bình của nhân dân thường diễn ra tại những buổi họp chợ, nhưng bất ngờ, tiếng súng Pháp đã khiến cuộc sống này bị đảo lộn. Câu "Một bàn cờ thế phút sa tay" tượng trưng cho cuộc chiến đấu ác liệt và nhanh chóng đã bắt đầu.
Bài thơ tiếp tục mô tả sự tàn phá của quân Pháp khi họ xâm lược. Sử dụng các từ ngữ như "lơ xơ" và "dáo dác" trong câu "Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy, Mất ổ, đàn chim dáo dác bay," Nguyễn Đình Chiểu tạo ra hình ảnh một cảnh kinh hoàng và thất thủ, trong đó trẻ em lạc trên đường và đàn chim mất tổ bay đi. Cách sắp xếp câu thơ và việc sử dụng "lơ xơ" và "dáo dác" tạo nên một thước đo của sự tuyệt vọng và hoảng loạn.
Bài thơ tiếp tục đưa ra các hình ảnh tượng trưng để mô tả sự tàn phá của quân Pháp. "Bến Nghé của tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây" diễn tả cảnh quê hương trở nên hoang tàn. Bến Nghé và Đồng Nai trước đây là những nơi trù phú, nhưng giờ đây chúng trở thành đống tro tàn do quân Pháp cướp giữ. Câu "tan bọt nước" và "nhuốm màu mây" tạo nên hình ảnh của sự phá hoại và thiệt hại nghiêm trọng.
Cuối cùng, bài thơ đặt ra câu hỏi: "Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng, Nỡ để dân đen mắc nạn này?" Nhà thơ trách móc sự thiếu vắng của anh hùng trong bối cảnh này, và đặt câu hỏi về tại sao dân tộc đang phải chịu đựng mất mát và khốn khó. Bài thơ "Chạy giặc" thể hiện tình yêu quê hương, căm hận xâm lăng và khát khao tự do, và nó đã trở thành một tượng đài của thơ ca yêu nước trong văn học Việt Nam.
Bài thơ "Chạy giặc" sử dụng ngôn ngữ đơn giản và màu sắc Nam Bộ, và sử dụng nhiều kỹ thuật nghệ thuật như đảo ngữ, phép đối, và so sánh ẩn dụ để thể hiện cảm xúc và ý nghĩa lịch sử quan trọng của nó.
Bài mẫu 4
Trong vườn hoa không phải tất cả những loài hoa đều có thể nở rộ, khoe sắc thắm và trong văn chương cũng vậy, không phải tác phẩm nào cũng có thể trường tồn cùng thời gian. Thế nhưng, Nguyễn Đình Chiểu - một ngôi sao sáng của dân tộc đã thổi hồn vào đứa con "Chạy giặc" của mình để nó trở thành một trong những bài thơ tiêu biểu của dòng thơ yêu nước trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Chúng ta từng biết đến Nguyễn Đình Chiểu với nhiều tập truyện thơ đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc như "Lục Vân Tiên", "Chúng tử tế mẫu văn",... Đặc biệt, vào thời khắc năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng mở đầu cho cuộc xâm lược nước ta với những thủ đoạn vô cùng dã man và tàn bạo khiến lòng căm thù giặc của nhà thơ ngày càng dâng cao.
Bằng ngòi bút điêu luyện, nhà thơ đã miêu tả hiện thực đất nước đầy đau thương trong buổi đầu bị xâm lược. Đó là khi giặc Pháp tấn công vào thành Gia Định lúc "tan chợ" ở hai câu đề:
"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay."
Cảnh họp chợ báo hiệu một cuộc sống yên bình, ấm no của con người, nay chợ đã tan, "tiếng súng Tây" đã làm xáo trộn cuộc sống thường nhật của người dân. Tiếng súng bất ngờ ấy đã làm cảnh tượng khu chợ trở nên tan tác, thê lương. Bằng biện pháp ẩn dụ nhà thơ gọi tiếng súng của giặc Pháp là "tiếng súng Tây" để lên án gay gắt và thể hiện một thái độ căm phẫn với những hành động xâm lăng của chúng. Thái độ căm thù giặc đó còn được thể hiện trong bài "Than đạo" của Nguyễn Đình Chiểu:
"Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà".
"Tiếng súng Tây" bất ngờ nổ lên khiến mọi người đều chạy hoảng loạn. Đáng lẽ ra, sau giây phút họp chợ là giây phút mà nhà nhà vui vẻ, đám trẻ con háo hức vì được bà hay được mẹ mua quà vặt. Cho dù đó là những thứ nhỏ bé, dân dã của làng quê như mấy viên kẹo bột, kẹo lạc hay những bộ quần áo mới thì tất cả đều khiến lũ trẻ mong chờ. Cả gia đình sẽ quây quần bên nhau để chế biến con cá vừa mới mua ở chợ hay kể về một người thân thích lâu không gặp nay bỗng gặp lại trong phiên chợ đó. Những khoảnh khắc ấy thật yên bình và hạnh phúc biết bao. Vậy mà tiếng súng lại vang lên phá tan đi những mái nhà yên ấm, những hạnh phúc bình dị đó. Có ai không đau lòng, không xót xa trước cảnh tượng ấy?
Nhà thơ đã so sánh thế nước như "một bàn cờ thế phút sa tay" để nói lên sự thất thủ của quân triều đình chỉ trong chớp nhoáng khiến cho vận nước rơi vào tay giặc. Đằng sau mỗi ý thơ đều ẩn chứa một tâm trạng đầy bất an và lo lắng của nhà thơ về vận nước lúc bấy giờ. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cũng là lúc nhân dân ta bước vào thời kì nô lệ, họ luôn phải sống trong lầm than, khổ cực dưới ách áp bức của thực dân.
Nhà thơ đã tái hiện lại cảnh tượng con người chạy hoảng loạn đầy xót xa ở hai câu thực:
"Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay".
Các từ ngữ: "Bỏ nhà", "lơ xơ chạy", "mất ổ", "dáo dác bay" đã đặc tả sự tan nát, hoang sơ đầy thương cảm khi lũ giặc xả súng tấn công tổ quốc. Nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh điển hình, lấy "lũ trẻ" để đại diện cho sự sống con người, lấy "đàn chim" để đại diện cho thế giới tự nhiên. Hai hình ảnh ấy đã trở thành điển hình cho nỗi đau thương của dân lành khi cả những đứa trẻ cũng phải chạy giặc, bầy chim cũng phải rời tổ để tìm chỗ ẩn náu cho mình. Nghệ thuật đảo ngữ đã lên án tội ác của giặc khiến cho những đứa trẻ cũng phải toán loạn chạy tìm nơi ẩn náu, bầy chim trên kia mất ổ cũng phải bay đi nơi khác. Các từ láy "lơ xơ", "dáo dác" có tính chất tạo hình cao giúp bạn đọc như được trở lại cùng người dân "chạy giặc" lúc bấy giờ.
Tác giả đã phác họa bức tranh ấy không chỉ ở những vùng quê, những khu chợ mà còn ở cả chốn đô thị sầm uất nay cũng trở nên tan tác ở hai câu luận:
"Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây."
Chúng ta biết đến Bến Nghé là nơi các hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa diễn ra sầm uất với các tàu bè tấp nập khoảng hai trăm năm về trước, còn Đồng Nai là một trong những vựa lúa lớn của miền Nam. Thế nhưng chỉ trong nháy mắt đã bị giặc Pháp cướp bóc, phá tan hoang đến mức nhanh như "bọt nước". Sự càn quét của giặc Pháp như một cơn lũ, chúng cuốn trôi đi tất cả, cướp đi biết bao sinh mạng, tài sản của nhân dân. Chúng đốt những mái ấm của nhân dân ta khiến cho lửa khói dâng cao ngút trời bao phủ cả khoảng không rộng lớn. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật so sánh độc đáo "của tiền tan bọt nước", "tranh ngói nhuốm màu mây" để lột tả bộ mặt tàn ác của quân xâm lăng. Sức tàn phá của chiến tranh thật ghê gớm. Chiến tranh không chỉ đảo lộn cuộc sống thường ngày mà chiến tranh còn làm mất mát bao của cải, tài sản của nhân dân, đẩy dân lành vào cảnh điêu đứng. Trước thảm cảnh đó, không ai có thể ngăn được sự xót xa, đau đớn dành cho hoàn cảnh của chính mình và dân tộc.
Tội ác quân giặc làm sao kể xiết, nhà thơ không khỏi lo lắng, đau xót trước cảnh nước nhà rơi vào tình trạng bi thương, thê thảm. Điều đó được thể hiện rõ ở hai câu kết:
"Hồi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nợ này?"
Câu hỏi tu từ ở cuối bài đã cho chúng ta thấy tấm lòng yêu nước tràn đầy nhiệt huyết, một dòng máu nóng đang chảy trôi trong tâm hồn nhà thơ, đó chính là tiếng lòng quặn thắt trước thực tại đầy đau xót của nhà thơ, đó cũng là sự thất vọng sâu sắc về phía triều đình. Từ đó ta cảm nhận được một trái tim đang rực cháy tình yêu quê hương, đất nước, một tấm lòng nhân hậu đầy thương cảm khi chứng kiến cảnh "dân đen" phải chịu cảnh lầm than. Những "trang dẹp loạn", những anh hùng, vua quan nhà Nguyễn đi đâu vắng lại để cho dân đen gồng mình chịu nạn? Những con người sống bằng mồ hôi, công sức, xương máu của nhân dân lại bỏ mặc nhân dân khi họ lâm vào khốn khó. Triều đình ấy đã không đứng lên bảo vệ nhân dân, dẹp giặc ngoại xâm mà lại trở nên hèn nhát, bạc nhược.
Bài thơ "Chạy giặc" đã tái hiện chân thực thời kì đau thương của đất nước, thể hiện ngọn lửa của lòng yêu nước luôn cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ. Nguyễn Đình Chiểu tuy không trực tiếp chiến đấu với quân địch trên chiến trường nhưng ngòi bút của ông lại có tính chiến đấu mạnh mẽ. Ông đã dùng ngòi bút của mình để lên án tội ác của giặc, thể hiện chí căm thù giặc đến ngút trời đồng thời thổi hồn vào đó một tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt. Dưới ngòi bút của nhà thơ, "Chạy giặc" thật xứng đáng là áng văn yêu nước trường tồn mãi mãi cùng thời gian.
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Chạy giặc
- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài văn bản Lòng yêu nước của nhân dân ta
- Viết đoạn văn chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân ta hay nhất
- Viết đoạn văn khoảng 8-10 câu về tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong đó có sử dụng 1 câu đặc biệt và thành phần trạng ngữ hay nhất
- Trong bài: “Lòng yêu nước của nhân dân ta ” Hồ Chủ tịch có viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. ” Dựa vào văn thơ đã học và thực tế lịch sử của dân tộc, em chứng minh nhận định trên
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 8 - Chân trời sáng tạo - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục