Bài 1. Những gương mặt thân yêu

Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu


Nỗi nhớ đồng, tình yêu thương quê hương cháy bỏng tâm hồn người chiến sĩ trong những năm tháng tù đày

Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 8 tất cả các môn - Chân trời sáng tạo

Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Tố Hữu

+ Tố Hữu (1920 - 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

+ Thơ Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất.

+ Ông là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.

- Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích: Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế) tháng 7 năm 1939 vì “tội” tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.

2. Thân bài

a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù

- Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ tiếng hò.

+ Tiếng hò được lặp lại nhiều lần. Tiếng hò lẻ loi đơn độc giữa trời trưa → nhân vật trữ tình cảm nhận được sự hiu quạnh

Không gian đồng vắng

Thời gian trưa vắng

Hiu quạnh của đời buồn tủi nhọc nhằn

- Lòng người đang bị giam cầm trong tù ngục cách biệt với cuộc sống bên ngoài

- Tiếng hò đã đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh → Người chiến sĩ cách mạng thấy nhớ nhung da diết đồng quê, cuộc sống bên ngoài nhà tù.

+ Tiếng than khắc khoải, da diết → diễn tả cõi lòng hoang vắng vì bị cách biệt với thế giới bên ngoài → nỗi hiu quạnh của người tha thiết yêu đời.

+ Sự lặp lại → nhấn mạnh liền ý liên kết nhiều nội dung khác nhau, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng → triền miên vì nỗi nhớ da diết.

- Đồng quê thể hiện lên đậm đà nỗi nhớ của tác giả:

+ Cồn thơm, ruồng tre mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng và con đường thân thuộc, xóm nhà tranh thấp, con đường quen. → Tất cả đều đơn sơ gần gũi quen thuộc, thân thương → bị ngăn cách.

- Con người gần gũi thân thuộc thân thương:

Những lưng cong xuống luống cày

Những bàn tay vãi giống

+ Một giọng hò đưa bố mẹ già xa đơn chiếc → linh hồn đã khuất.

- Nỗi nhớ chân thật đậm tình thương mến

- Nhớ đến bản thân mình:

+ Nhớ tới những ngày tháng tự do hoạt động cách mạng.

+ “Rồi một …ngát trời”

→ Say mê lý tưởng, khao khát tự do sôi nổi càng cảm thấy cô đơn với thực tại cuộc sống bị giam cầm.

b. Diễn biến tâm trạng của Tố Hữu

- Nỗi nhớ biểu hiện tâm trạng nhà thơ:

+ Từ tiếng hò gợi nỗi nhớ đồng quê tha thiết: Hình ảnh đồng quê hiện lên đậm đà với: cồn thơm, ruộng tre mát, mạ xanh mơn mởn, khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng, con đường thân thuộc → những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, thân thương nay đã trở nên xa cách.

+ Nỗi nhớ bao con người thân thuộc: từ cảnh sắc bóng dáng con người → người mẹ già nua → nhớ chính mình

+ Nỗi nhớ trải dài từ hiện tại trở về quá khứ → hiện tại

nhớ, tràn ngập xót thương → không chỉ buồn đằng sau là nỗi phẫn uất, bất bình với thực tại niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do.

3. Kết bài

+ Đây là bài thơ hay, giàu cảm xúc và tâm trạng của một người chiến sĩ khao khát tự do và hành động. Nỗi nhớ đồng quê, con người, chính mình biểu hiện tình yêu da diết với cuộc sống bên ngoài nhà tù và bao trùm hơn hết là tình yêu Tổ quốc, khát vọng tự do.

 

+ Lựa chọn hình ảnh gần gũi, quen thuộc, giọng thơ da diết, khắc khoải trong nỗi nhớ.

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Tố Hữu

 

+ Tố Hữu (1920 - 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

+ Thơ Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất.

+ Ông là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.

- Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích: Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế) tháng 7 năm 1939 vì “tội” tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.

2. Thân bài

a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù

- Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ tiếng hò.

+ Tiếng hò được lặp lại nhiều lần. Tiếng hò lẻ loi đơn độc giữa trời trưa → nhân vật trữ tình cảm nhận được sự hiu quạnh

Không gian đồng vắng

Thời gian trưa vắng

Hiu quạnh của đời buồn tủi nhọc nhằn

- Lòng người đang bị giam cầm trong tù ngục cách biệt với cuộc sống bên ngoài

- Tiếng hò đã đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh → Người chiến sĩ cách mạng thấy nhớ nhung da diết đồng quê, cuộc sống bên ngoài nhà tù.

+ Tiếng than khắc khoải, da diết → diễn tả cõi lòng hoang vắng vì bị cách biệt với thế giới bên ngoài → nỗi hiu quạnh của người tha thiết yêu đời.

+ Sự lặp lại → nhấn mạnh liền ý liên kết nhiều nội dung khác nhau, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng → triền miên vì nỗi nhớ da diết.

- Đồng quê thể hiện lên đậm đà nỗi nhớ của tác giả:

+ Cồn thơm, ruồng tre mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng và con đường thân thuộc, xóm nhà tranh thấp, con đường quen. → Tất cả đều đơn sơ gần gũi quen thuộc, thân thương → bị ngăn cách.

- Con người gần gũi thân thuộc thân thương:

Những lưng cong xuống luống cày

Những bàn tay vãi giống

+ Một giọng hò đưa bố mẹ già xa đơn chiếc → linh hồn đã khuất.

- Nỗi nhớ chân thật đậm tình thương mến

- Nhớ đến bản thân mình:

+ Nhớ tới những ngày tháng tự do hoạt động cách mạng.

+ “Rồi một …ngát trời”

→ Say mê lý tưởng, khao khát tự do sôi nổi ⇒ càng cảm thấy cô đơn với thực tại cuộc sống bị giam cầm.

b. Diễn biến tâm trạng của Tố Hữu

- Nỗi nhớ biểu hiện tâm trạng nhà thơ:

+ Từ tiếng hò gợi nỗi nhớ đồng quê tha thiết: Hình ảnh đồng quê hiện lên đậm đà với: cồn thơm, ruộng tre mát, mạ xanh mơn mởn, khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng, con đường thân thuộc → những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, thân thương nay đã trở nên xa cách.

+ Nỗi nhớ bao con người thân thuộc: từ cảnh sắc bóng dáng con người → người mẹ già nua → nhớ chính mình

+ Nỗi nhớ trải dài từ hiện tại trở về quá khứ → hiện tại

⇒ nhớ, tràn ngập xót thương → không chỉ buồn đằng sau là nỗi phẫn uất, bất bình với thực tại ⇒ niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do.

3. Kết bài

+ Đây là bài thơ hay, giàu cảm xúc và tâm trạng của một người chiến sĩ khao khát tự do và hành động. Nỗi nhớ đồng quê, con người, chính mình biểu hiện tình yêu da diết với cuộc sống bên ngoài nhà tù và bao trùm hơn hết là tình yêu Tổ quốc, khát vọng tự do.

+ Lựa chọn hình ảnh gần gũi, quen thuộc, giọng thơ da diết, khắc khoải trong nỗi nhớ.

Bài mẫu 1

Nỗi nhớ đồng, tình yêu thương quê hương cháy bỏng tâm hồn người chiến sĩ trong những năm tháng tù đày. Những đường nét, màu sắc, âm thanh được nhà thơ sử dụng đã làm hiện lên thấp thoáng bóng hình quê hương với bao nỗi nhớ, tình thương, nỗi buồn day dứt, triền miên khôn nguôi.                             

   “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

   Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

   Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

   Đâu ruồng tre mát thở yên vui

   Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

   Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

   Đâu những đường con bước vạn đời

   Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

   Giữa dòng ngày tháng âm u đó

   Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi..."

   Phần “Xiềng xích" trong tập thơ "Từ ấy” gồm 29 bài thơ. Từ tháng 4 đến thắng 7 năm 1939, Tố Hữu đã viết một chùm thơ 9 bài. "Nhớ đồng" là bài số 7 được viết vào tháng 7 năm 1939. Nhan đề bài thơ là “'Nhớ đồng” và đó cũng là cảm xúc chủ đạo của Tố Hữu trong chốn ngục tù. Bài thơ gồm có 44 câu thơ nói lên 4 nỗi nhớ. 10 câu đầu là nỗi nhớ đồng quê. 10 câu tiếp theo nói lên nỗi nhớ những người dân cày lam lũ. 10 câu nối tiếp diễn tả lòng thương nhớ mẹ già và “những hồn thân tự thuở xưa”. 14 câu còn lại là tâm trạng “tôi nhớ tôi", và thể hiện lòng khao khát tự do.

   Bài thơ có cấu trúc "phức điệu", đoạn 1 và 3 xuất hiện điệp khúc:

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quanh bên trong một tiếng hò!".

Điệp khúc ấy được biến tấu thành:

“Gì sâu bằng những trưa hiu quanh,

Ôi ruộng đồng hương nhớ ơi!".

đặt vào đầu đoạn 2 và cuối đoạn 4.

   Cấu trúc “phức điệu" ấy rất độc đáo nhằm tạo nên những vòng xoáy đầy da diết về nỗi nhớ đồng trong lòng người chiến sĩ trẻ đang bị đày đọa trong chốn ngục tù. Đây là đoạn một bài thơ “Nhớ đồng”

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

…………………………..

Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi".

   Từ ngày bị mật thám bắt, bị tù đày giữa "lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ", nỗi nhớ đồng cứ diễn ra triền miên, nhất là những buổi trưa trong nhà tù. Nỗi nhớ ấy day dứt và thiết tha vô cùng, không thể nào nguôi. Tự đáy lòng thốt lên so sánh: "Gì sâu bằng những trưa thương nhớ". Thế giới nhà tù, trong và ngoài song sắt đều "hiu quạnh", rất vắng vẻ và buồn. "Hiu quạnh" đâu chỉ là ngoại cảnh nhà tù mà còn là tâm cảnh của "thân tù". Trong khoảnh khắc "hiu quạnh ấy nhớ buổi trưa, nhà thơ nhớ "một tiếng hò" nơi làng quê, thổn thức cả nỗi lòng:

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò”

   Nhớ một tiếng hò", nhớ một khúc dân ca, nhớ một giọng hò "Mái nhì", "Mái đẩy", một giọng hò "đĩa gạo” của quê hương mà nhà thơ từng ôm ấp trong lòng:

"Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước,

Một giọng hò đưa hố não nùng".

(đoạn 2)

   "Một tiếng hò” là hồn quê. Nhớ "một giọng hò" là nhớ đồng, là nhớ quê hương , “nghĩa nặng tình sâu" đã bao ngày li biệt. Bốn câu thơ tiếp theo, chữ "đâu" được điệp lại, các câu hỏi tu từ liên tiếp xuất hiện, nỗi "nhớ đồng" day dứt khôn nguôi:

''Đâu nhớ cồn thơm đất nhả mùi,

Đâu ruồng tre mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?"

   Vần thơ làm hiện lên một không gian nghệ thuật bức tranh đồng quê: diễn tả một tâm trạng nghệ thuật ấy là nỗi nhớ đồng da diết. Nhớ hương vị quê hương, nhớ cồn thơm đất nhả mùi", nhớ luống cày, nhớ hương lúa. Nhở lũy tre, ruồng tre xanh trùm bóng mát rượi "thở yên vui". Chữ  thở trong câu thơ "đâu ruồng tre mát thở yên vui" được sử dụng tài tình, gợi tả âm thanh rì rào, lao xao của lá tre, khúc nhạc yên vui, êm đềm của làng quê ta bao đời nay. Một sự chuyển đổi cảm giác đầy thi vị. Nhớ đồng là nhớ "từng ô mạ xanh mơn mởn" - tươi đẹp và xanh non. Nhớ đồng là nhớ vị "bùi" của sắn, vị “ngọt" của khoai. Các tính từ - bổ ngữ: "thơm", "mát", "yên vui", “xanh mơn mởn” "ngọt", "bùi"... đã tô đậm vẻ đẹp của đồng quê. Bức tranh quê trong hoài niệm hiện lên thân thuộc, bình dị, xinh đẹp và đáng yêu biết bao! Bị tù đày mà xa cách quê hương. Cảnh sắc quê hương giờ đây chỉ hiện lên trong hoài niệm, trong nỗi nhớ vơi đầy. Chữ ''đâu” bốn lần xuất hiện diễn tả một cách xúc động, đầy ám ảnh nỗi nhớ đồng gắn liền với nỗi đau buồn cô đơn của nhà thơ đang bị đày đọa trong chốn ngục tù.

   Hơn một nghìn ngày bị tù đày (1939 - 1942), Tố Hữu có biết bao nỗi nhớ day dứt và triền miên trong lòng. Chợt nghe một tiếng chim tu tú gọi bầy mà nhớ "Vườn râm dậy tiếng ve ngân - Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào" (Khi con tu hú). Một màu xanh của đồng lúa, một tiếng hát "bơ vơ” một ánh nắng chiều bên nương gợi lên bao nỗi nhớ quê, nhớ nhà vô cùng da diết:

"Đồng xanh gợn nhơ quê hương

Bơ vơ tiếng hát bên nương nắng chiều".

( tiếng hát đi cày).

   "Nhớ đồng" là nhớ mãi nhớ hoài "Những hồn chất phác hiền như đất - Khoai sắn tình quê rất thiệt thà. “Nhớ đồng" là nhớ mẹ già thương yêu:

"Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!"

   Tiếng thơ cất lên nghe thật bồn chồn, tha thiết. Nhớ đồng, nhớ quê, nhớ mẹ già... là những nét rất đẹp trong hồn thơ Tố Hữu.

   Đoạn thơ tiếp theo nói lên nỗi nhớ những cảnh đời lầm than, là đọng sau luỹ tre xanh:

"Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi...".

   Không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật về nỗi "nhớ đồng" được mở rộng và khơi sầu thêm "những trưa thương nhớ...", "những trưa hiu quạnh..." Tiếng thơ cất lên tự hỏi: "Đâu những đường con bước vạn đời?". Xa cách đã bao ngày hình bóng quê hương. Còn đâu nữa, ở đâu rồi những con đường quê gập ghềnh xuôi ngược của bao kiếp người lam lũ, của mẹ ta, chị ta "Đòn gánh tre chín dạn hai vai" (Nguyễn Du),..? Còn đâu nữa, ở đâu rồi hình ảnh bình dị, thân thuộc đáng yêu: "Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi". Một câu thơ có hình ảnh sáng tạo, gợi cảm. Sáng tạo và gợi cảm ở nghệ thuật dùng từ "thấp", ở hình ảnh nhân hóa "...ngủ im hơi". Đó là hình ảnh làng quê Việt Nam tăm tối, nghèo nàn, liêu điều, xác xơ... dưới thời Pháp thuộc. Ở đâu cũng thế, khắp Bắc, Trung, Nam, đều thế: "Năm gian nhà cỏ thấp le te...", "Phần thuế quan Tây, phần trả nợ... (Nguyễn Khuyến).

   Với Tố Hữu thì nỗi nhớ luôn luôn gắn liền với tình thương, thương quê hương đất nước, thương đồng chí đồng bào, thương nhân dân lao động nghèo khổ đang rên xiết dưới ách thống trị của ngoại bang, đang bị ''Đọa đày trong những hố thẳm không cùng (Tâm tư trong tù). Cuộc sống của nhân dân ta thuở ấy cứ lặng lẽ, âm thầm trôi đi trong những tháng ngày đen tối "âm u". Đó là cái "Ao đời" tù đọng như thi sĩ Xuân Diệu đã nói tới trong "Tỏa nhị Kiều”. Cuộc đời "không đổi", thân phận ''không đổi", nhưng mà "trôi cứ trôi". Ba chữ "trôi cứ trôi" thấm thía bao nỗi buồn. Câu thơ không chỉ nói lên một nỗi buồn "nhớ đồng" thấm thía và còn mang ý nghĩa lay gọi, thức tỉnh về nô lệ và tự do:

"Giữa dòng ngày tháng âm u đó,

Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi".

   Điệp ngữ "trôi cứ trôi" liên kết với hình ảnh ẩn dụ "dòng ngày tháng âm u tạo nên tính hệ thống ngôn ngữ văn chương giàu sắc thái biểu cảm nói về cái vô nghĩa, cái đáng chán của những thân phận, những kiếp người bị tước đoạt mất tự do!

   Tố Hữu đã có lần thổ lộ: "Thơ là một điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu", cho nên "Thơ là chuyện tri âm tri kỉ" ở đời. Đọc thơ Tố Hữu, đặc biệt đọc những bài như "Tâm tư trong tù", "Nhớ đồng", "Tiếng hát đi đày",... chúng ta tìm thấy và hòa nhập với "điệu hồn" thi sĩ.

   Đoạn thơ trên đây hội tụ bao nét đẹp của hồn thơ Tố Hữu. Nỗi nhớ đồng, tình yêu thương quê hương cháy bỏng tâm hồn người chiến sĩ trong những năm tháng tù đày. Những đường nét, màu sắc, âm thanh được nhà thơ sử dụng đã làm hiện lên thấp thoáng bóng hình quê hương với bao nỗi nhớ, tình thương, nỗi buồn day dứt, triền miên khôn nguôi. Giọng thơ bồi hồi xao xuyến, thấm thía một nỗi buồn thương. Chất trữ tình và cảm xúc về cái đẹp, về nỗi buồn thương nhớ đồng quê đã tạo nên một cảm hứng đồng hành với tư tưởng cách mạng. Đó là khao khát tự do:

"...Tôi mơ qua cửa khám bao ngày

Tôi thu tất cả trong thầm lặng

Như cánh chim buồn nhớ gió mây".

(Nhớ đồng)

Bài mẫu 2

Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ lớn, thơ ông được xem là biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca cũng là con đường cách mạng. Thơ ông song hành với con đường cách mạng và phản ánh những chặng đường cách mạng quan trọng của dân tộc. Bài thơ Nhớ đồng là nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế.

     Tháng 7 năm 1939 Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm trong tù ngục nhưng ông vẫn làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được sáng tác trong hoàn cảnh đó và được trích trong tập thơ: Từ ấy trong phần xiềng xích. Đây là một bài thơ tiêu biểu của tập thơ Từ ấy.

     “Cô đơn thay là cảnh thân tù/ Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” đó là cảm giác rõ nhất khi Tố Hữu bị bắt, cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Vì vậy một âm thanh, một tiếng động nào bên ngoài dội vào cũng gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Không phải là tiếng chim tu hú khắc khoải gọi hè như trong bài thơ Khi con tu hú, mà là một tiếng hò quen thuộc của đồng quê:

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

     Bài thơ gợi từ tiếng hò thân thuộc trở thành điệp khúc trở đi trở lại: Nỗi thương nhớ; nỗi hiu quạnh. Bằng cách lặp đi lặp lại 4 lần hình ảnh một tiếng hò nhà thơ đã nói lên được sự đồng cảm với tâm trạng cô đơn, cảm giác lạnh lẽo của người tù.

     Tiếng hò như một điểm nhấn gợi nhớ, khiến cho bao nhiêu hình ảnh quen thuộc của đồng quê hiện về:

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

     Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê hương. Thế giới bên ngoài là đồng quê, hình ảnh con người, mùi hương, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh thân thuộc, da diết của quê hương, xứ sở. Trong xa cách, nỗi nhớ của nhà thơ dường như da diết hơn. Trong xa cách, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc của quê hương càng trở nên gần gũi lạ thường.

     Nỗi nhớ đồng quê ấy còn là nỗi nhớ con người lao động – những người dân quê cần cù, chất phác, quen “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:

Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?

     Đó là những người dân cày quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Đó người nông dân với luống cày vất vả, gian nan, lưng còng theo năm tháng. Thế nhưng, ở họ, toát lên một vẻ đẹp sáng ngời của phẩm chất trong sáng, dù có ở trong bùn đen nhưng vẫn nức hương. Chính họ, chính những người lao động chân chất thôn quê ấy còn là những người gieo những tia hi vọng vào tương lai.

     Nhà thơ tiếp tục nỗi nhớ của mình với các hình ảnh: sương, lúa, tiếng xe lùa nước, giọng hò. Tất cả đều là hình ảnh, âm thanh thân thuộc của đồng quê. Và nhà thơ nhớ da diết những hình ảnh ấy. Từ nỗi nhớ ấy, nghĩ về cảnh tù đày của bản thân, một chút chạnh lòng chợt len lỏi trong tâm khảm nhà thơ cách mạng:

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!

     Tất cả những gì quen thuộc nhất, thân thương nhất, nhưng giờ đây “đâu cả rồi“. Một câu hỏi lớn vang lên không lời đáp như là một nhát dao đâm vào lòng người tù, trở nên đau đớn, xót xa. Giờ đây, khi ở trong lao, mọi thứ đã cách biệt và trở nên xa xôi hơn bao giờ hết. Chao ôi thương nhớ, điệp khúc lặp lại hai lần trong câu thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Và trong nỗi nhớ thương ấy, hiện lên hình ảnh người mẹ già – người mà tác giả nhớ nhất trong nỗi nhớ của mình.

     Mạch thơ tiếp diễn với nỗi nhớ thương da diết, dâng trào. Khi người ta nhớ, người ta thương mà không được nhìn, không được ngắm, không được trở về để yêu thương thì càng khiến con người thêm day dứt, thêm cồn cào ruột gan. Và sau những thoáng buồn thương cho cảnh ngộ của mình trong tù, người chiến sĩ thiết tha yêu cuộc sống lại kiên trì – đấu tranh với những giây phút yếu mềm để vượt lên. Anh nhớ lại hình ảnh của chính mình của “những ngày xưa”, từ cái thời “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, “theo mãi vòng quanh quẩn” để có ngày đến với cách mạng, gặp gỡ lí tưởng cộng sản. Và thế là người tù lại khát khao tự do, thèm muốn được thoát khỏi lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu vì sự nghiệp cách mạng.

Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say hương đồng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời

     Hình ảnh con chim sơn ca như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân, được trở về với cuộc sống con người tự do. Đây là tâm trạng vui nhất của người chiến sĩ trong tù.

     Diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện khá chân thực, trọn vẹn và liền mạch. Nỗi nhớ được đánh thức từ một “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê bên ngoài từ cảnh sắc đến những dáng hình quen thuộc. Rồi nhớ về những ngày còn được thỏa sức hoạt động cho cách mạng, cuối cùng lại trở lại thực tại đau thương của cảnh nhà tù và khát vọng muốn được tự do, được cống hiến. Cả bài thơ thấm đượm nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi; khiến độc giả thêm cảm phục hình ảnh người chiến sĩ cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.

Bài mẫu 3

Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Đến với thơ ông, ta bắt gặp những áng thơ tràn đầy niềm tin, lý tưởng cách mạng. Tập thơ "Từ ấy" của ông tiêu biểu cho hồn thơ sục sôi, nhiệt huyết ấy, bài thơ "Nhớ đồng" là một trong những bài thơ hay nhất của tập thơ.

     Bài thơ được viết trong hoàn cảnh Tố Hữu bị cầm tù nơi ngục tối. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết và nỗi nhớ quê hương khôn nguôi của tác giả. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ, là tiếng thơ tựa tiếng hát yêu thương, bộc lộ nỗi cô đơn, nỗi mong nhớ sâu thẳm nơi đáy lòng của người chiến sĩ cách mạng:

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò"

     Lối so sánh hơn độc đáo của tác giả gợi lên nỗi nhớ da diết đầy xúc cảm. Không có gì thương và buồn hơn là những ngày trưa thương nhớ quê nhà. Càng nhớ lại càng cô đơn, nỗi nhớ càng rộng lớn bao nhiêu thì nỗi cô đơn lại càng ngập tràn, "hiu quạnh" bấy nhiêu. Một tiếng hò tình quê cất lên thắm thiết mang thương nhớ cồn cào hay tiếng hò ấy là tiếng lòng hiu quạnh, lạnh giá, đơn độc của nhà thơ nơi chốn tù đày đau thương. Niềm mong nhớ ấy cứ khắc khoải, chực chờ, bao hình ảnh quê hương dần hiện về trong tâm khảm. Càng nhớ càng thương lại càng buồn trĩu nặng:

"Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu luồng tre mát thuở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi

Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi"

     Nơi chốn quê nhà thương yêu ấy có biết bao vẻ đẹp, bao dấu ấn mãi chẳng thể nào quên được. Đó là những gì đẹp đẽ nhất mà chỉ có ở chốn quê hương mình mà thôi, chẳng nơi đâu có thể thay thế được. Đó là hương gió nhẹ nhẹ hòa trong mùi đất lành thơm ngát, là những luồng tre xanh toả bóng mát chiều hè. Quê hương ấy còn là những cánh đồng có ô mạ xanh tươi nơi có những người dân cày một nắng hai sương lam lũ, chân chất, thật thà. Và đó còn là những ruộng nương khoai sắn ngọt bùi, là những mái nhà tranh ấm êm bình dị, tuy nghèo khó mà tấm lòng bao la, chứa chan tình người dành cho nhau. Cảm xúc theo nỗi nhớ trào dâng trong lòng, tiếng thơ mang theo biết bao tâm tình trong sâu thẳm tâm hồn. Điệp từ "Đâu" đứng ở đầu câu vừa như một câu hỏi tu từ lại vừa như đang kiếm tìm chút gì đó thân thuộc của những ngày xưa nơi quê nhà, khi mà chưa có chiến tranh, mất mát, đau thương. Đâu rồi những khung cảnh của ngày xưa, hiện tại sao thấy trống vắng mà hụt hẫng đến vậy. Đâu chỉ có cảnh vật quê hương, nỗi nhớ đó còn hướng về những con người của miền quê. Những người lao động cần cù nhẫn nại, qua bao gian khó vẫn kiên cường tranh đấu, vẫn hăng say với lao động. Nhà thơ nhắc đến họ bằng tình yêu và niềm kính trọng

"Đâu những chiều sương phủ bãi đồng

Lúa mềm xao xác ủ ven sông

Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước

Một giọng hò đưa hố não nùng."

     Dù có vất vả mệt nhọc, có khó khăn chồng chất thì những người nông dân vẫn giữ vững niềm tin, lạc quan trong gian khó. Vẫn cất lên giọng hò tha thiết xua tan những âm u, não nề. Bao kỉ niệm vẫn vậy, vẫn còn đó, vẫn được giữ mãi trong kí ức của nhà thơ. Khi nỗi nhớ cứ ngày một lớn thì kỉ niệm cũng theo dòng cảm xúc ùa về trong tâm tưởng. Nỗi nhớ làm sao ai có thể ngăn được. Một lần nữa, nhà thơ phải thốt lên nghẹn ngào:

"Gì đâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên sông một tiếng hò"

     Biết bao vẻ đẹp xưa hiện về khiến lòng người không khỏi khắc khoải, nhớ thương. Nhưng đâu ai có thể sống mãi với quá khứ được, hiện tại luôn là thứ khiến con người phải trăn trở, đấu tranh:

"Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ giờ xa đơn chiếc ơi!"

     Thực tại sao phũ phàng quá đi thôi, chỉ có nhà thơ đang nơi đây một mình một cõi. Bao cách biệt xa xôi thấm dần vào nỗi buồn kẻ cô đơn, chiếc bóng, những điều thân thuộc, bóng mẹ già cũng xa rồi, chỉ còn lại nỗi thương nhớ cứ dằn vặt mãi không thôi. Những lời cảm thán "Chao ôi","Ôi" cất lên nghe ngậm ngùi mà thê lương quá. Ta như cảm nhận được nỗi xót xa, đắng cay hòa trong từng lời thương nhớ vậy.

     Tố Hữu - một nhà thơ- một chiến sĩ cách mạng yêu quê hương đất nước mình bằng một tấm lòng thiết tha, trọn vẹn. Tâm hồn luôn hướng về nguồn cội, về dân tộc và tổ quốc thân thương, gắn bó với nhân dân, cùng nhân dân lao động. Dẫu trong ngục hiểm nguy, khó khăn vẫn hướng về cuộc sống ngoài kia với những nỗi đau của dân tộc. Không chỉ là nhân dân, là đồng quê, Tố Hữu còn tìm về mình của những ngày xưa qua nỗi nhớ:

"Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi

Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời

Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn

Muốn thoát, than ơi, bước chẳng rời."

     Ai cũng có cho mình một quá khứ và Tố Hữu cũng vậy, nhà thơ nhớ về những tháng ngày đầy gian nan khi đi tìm lẽ sống, kiếm lẽ yêu đời nhưng vẫn mãi một vòng quanh quẩn, chẳng tìm đâu ra một lối thoát cho cuộc sống chính mình. Nhưng rồi, mọi chuyện cũng trôi qua và trở nên tốt đẹp hơn khi bắt gặp được lý tưởng cách mạng sáng soi:

"Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say đồng hương nắng ưa ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời"

     Lòng đầy hưng phấn, nhẹ nhàng khi tìm thấy chính niềm yêu trong lựa chọn của mình. Sự phấn khởi, hăng say, tự hào và khát khao cuộc sống được cất lên như một nốt nhạc tươi vui giữa cuộc đời. Còn gì vui hơn khi được sống với chính mình, có được sự nhẹ nhàng trong tâm khảm và được là chính mình cơ chứ? Hình ảnh so sánh niềm "nhẹ nhàng" với cánh chim thật độc đáo và ấn tượng, đó phải chăng đâu chỉ là niềm vui riêng mà còn là niềm vui chung cùng với thiên nhiên, đất trời.

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Ôi ruộng đồng quê hương nhớ ơi!"

     Bài thơ kết thúc bằng lời thơ được lặp lại đầy ắp một niềm thương, niềm khắc khoải khôn nguôi. Có lẽ, nỗi nhớ mãi vẫn sục sôi, cuộn trào trong trái tim người thì sĩ yêu nước.


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 8 - Chân trời sáng tạo - Xem ngay

Tham Gia Group Dành Cho 2K11 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí