Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố nào? So với bài thơ Nam quốc sơn hà, hãy chỉ ra đâu là những yếu tố kế thừa, đâu là những yếu tố phát triển?>
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng
Tổng hợp đề thi giữa kì 2 lớp 8 tất cả các môn - Cánh diều
Toán - Văn - Anh - Khoa học tự nhiên
Bài mẫu 1
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, tác giả đã đưa ra một khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc. So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bài thơ Sông núi nước Nam, thì ở Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.
Bài mẫu 2
Chủ quyền dân tộc luôn là một vấn đề cốt lõi trong lịch sử Việt Nam. Các tác phẩm chính luận thời trung đại không chỉ khẳng định quyền tự chủ của đất nước mà còn thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc. Nếu Nam quốc sơn hà được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, thì Nước Đại Việt ta trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một bước phát triển hoàn chỉnh hơn, với lập luận sắc bén và hệ thống lý lẽ chặt chẽ.
Trước hết, để khẳng định chủ quyền dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào nhiều yếu tố quan trọng. Đầu tiên là yếu tố lãnh thổ: Ông xác định rõ “Núi sông bờ cõi đã chia”, khẳng định Đại Việt có ranh giới địa lý riêng, tách biệt với phương Bắc. Đây là cách lập luận quen thuộc trong tư tưởng chính trị đương thời, nhấn mạnh sự độc lập thông qua sự phân định không gian lãnh thổ.
Tiếp theo, Nguyễn Trãi bổ sung một yếu tố quan trọng hơn so với các tuyên ngôn trước đó – yếu tố văn hiến. Ông nhấn mạnh:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.”
Lần đầu tiên trong văn học chính luận, Đại Việt được khẳng định là một quốc gia có nền văn hiến lâu đời, sánh ngang với Trung Hoa. Không chỉ có lãnh thổ riêng, Đại Việt còn có hệ thống triều đại, lịch sử phát triển lâu dài, tạo nên một nền chính trị độc lập.
Bên cạnh đó, yếu tố phong tục cũng là một luận điểm quan trọng. Nguyễn Trãi khẳng định: “Phong tục Bắc Nam cũng khác”, nhấn mạnh sự khác biệt về văn hóa, lối sống, truyền thống giữa hai dân tộc. Đây là một bước tiến so với Nam quốc sơn hà, khi bài thơ này chỉ tập trung vào yếu tố lãnh thổ mà chưa đề cập sâu đến sự khác biệt về văn hóa.
Đặc biệt, Nguyễn Trãi còn củng cố lập luận bằng yếu tố lịch sử đấu tranh. Ông nhắc đến những chiến công chống ngoại xâm của dân tộc:
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.”
Những dẫn chứng lịch sử này không chỉ khẳng định sự tồn tại lâu đời của dân tộc mà còn chứng minh sức mạnh của nhân dân Đại Việt trong việc bảo vệ nền độc lập.
So sánh với Nam quốc sơn hà, ta thấy rõ sự kế thừa và phát triển. Cả hai tác phẩm đều nhấn mạnh yếu tố lãnh thổ và tư tưởng chính nghĩa, nhưng Nước Đại Việt ta đã mở rộng lập luận theo hướng toàn diện hơn. Nếu Nam quốc sơn hà mang tính tuyên ngôn ngắn gọn, trực diện, thì Nước Đại Việt ta có tính thuyết phục cao hơn khi kết hợp lý lẽ với thực tiễn lịch sử, văn hóa.
Như vậy, Nước Đại Việt ta không chỉ kế thừa tinh thần độc lập của Nam quốc sơn hà, mà còn phát triển thành một bản tuyên ngôn hoàn chỉnh hơn. Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định Đại Việt có lãnh thổ riêng mà còn chứng minh đó là một quốc gia có nền văn hiến, phong tục, lịch sử lâu đời. Từ đó, tác phẩm thể hiện tư tưởng chính trị tiến bộ và niềm tự hào sâu sắc về dân tộc.
Bài mẫu 3
Chủ quyền dân tộc luôn là một đề tài quan trọng trong văn học trung đại Việt Nam, thể hiện tinh thần yêu nước và khẳng định nền độc lập của đất nước trước các thế lực ngoại bang. Nếu bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, thì đoạn trích Nước Đại Việt ta trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một bước phát triển hoàn thiện hơn, với hệ thống lập luận sắc bén, chặt chẽ.
Trước hết, để khẳng định chủ quyền dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào nhiều yếu tố. Yếu tố lãnh thổ là cơ sở đầu tiên mà ông đề cập đến: “Núi sông bờ cõi đã chia”. Đây là một nguyên tắc bất di bất dịch, khẳng định Đại Việt có ranh giới địa lý rõ ràng, không thể bị xâm phạm. Đây cũng chính là tư tưởng đã xuất hiện trong Nam quốc sơn hà với câu: “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.
Tuy nhiên, điểm đặc sắc của Nguyễn Trãi so với Nam quốc sơn hà là ông không dừng lại ở yếu tố địa lý mà còn nhấn mạnh yếu tố văn hiến:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.”
Bằng cách liệt kê các triều đại của Đại Việt, Nguyễn Trãi khẳng định dân tộc ta có một lịch sử lâu đời không kém gì Trung Hoa. Đây là một sự phát triển quan trọng so với Nam quốc sơn hà, khi bài thơ này chỉ nhấn mạnh vào quyền cai trị của vua nước Nam mà chưa đề cập đến truyền thống văn hiến.
Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn bổ sung yếu tố phong tục, văn hóa: “Phong tục Bắc Nam cũng khác”. Câu thơ này khẳng định sự khác biệt không chỉ về lãnh thổ mà còn về phong tục, tập quán giữa hai dân tộc. So với Nam quốc sơn hà, đây là một bước tiến quan trọng, thể hiện tư duy biện chứng của Nguyễn Trãi khi nhìn nhận chủ quyền dân tộc không chỉ từ góc độ địa lý mà còn từ góc độ văn hóa.
Cuối cùng, Nguyễn Trãi đưa ra yếu tố lịch sử đấu tranh:
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.”
Những dẫn chứng về chiến thắng của Đại Việt trước các thế lực phương Bắc giúp củng cố lập luận, chứng minh rằng dân tộc ta không chỉ có quyền độc lập mà còn đủ sức mạnh để bảo vệ nền độc lập ấy. Đây là một điểm phát triển hơn so với Nam quốc sơn hà, khi bài thơ của Lý Thường Kiệt chỉ khẳng định chủ quyền mà chưa đưa ra dẫn chứng cụ thể về thực tiễn lịch sử.
Như vậy, có thể thấy Nước Đại Việt ta không chỉ kế thừa tinh thần khẳng định độc lập của Nam quốc sơn hà mà còn phát triển theo hướng lập luận toàn diện hơn. Nguyễn Trãi không chỉ nói về ranh giới lãnh thổ mà còn mở rộng ra văn hiến, phong tục và lịch sử đấu tranh. Điều này không chỉ giúp củng cố tinh thần tự hào dân tộc mà còn tạo ra một bản tuyên ngôn độc lập thuyết phục và sâu sắc hơn, thể hiện tư tưởng chính trị tiến bộ của thời đại.


- Tổng hợp các cách mở bài, kết bài cho tác phẩm Nước Đại Việt ta
- Giá trị nhân văn trong văn bản Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn?
- Nêu suy nghĩ của em về tình cảm yêu nước thương dân được thể hiện trong các văn bản Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ
- Dựa vào các văn bản Chiếu dời đô và Hịch tướng sĩ, hãy nêu suy nghĩ về vai trò của những người lãnh đạo anh minh như Lý Công Uẩn và Trần Quốc Tuân đối với vận mệnh đất nước.
- Nêu cảm nhận về văn bản Chiếu dời đô
>> Xem thêm