Viết bài văn thuyết minh thuật lại sự kiện văn hóa tại Nam Định lớp 6>
1. Dàn ý chi tiết I. Mở bài: - Giới thiệu khái quát về lễ hội đền Trần - lễ hội ngày xuân đặc sắc
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về lễ hội đền Trần - lễ hội ngày xuân đặc sắc
II. Thân bài:
* Nguồn gốc lịch sử của lễ hội
- Lễ hội đền Trần gồm lễ khai ấn và lễ hội lớn.
- Lễ hội đền Trần ngày xuân được nhiều người biết đến cùng với Lễ hội khai ấn đền Trần, được tổ chức với mục đích tri ân các vị vua Trần.
- Nguồn gốc ra đời của lễ hội đền Trần gắn liền với lịch sử của đền Trần:
+ Đền Trần ở đường Trần Thừa, thành phố Nam Định, là nơi thờ các vị vua Trần cùng các quan lại phò tá nhà Trần.
+ Đền được xây dựng năm 1695, có 3 công trình kiến trúc chính gồm: đền Thiên Trường (đền Thượng), đền Cố Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa.
- Lễ khai ấn đền Trần đầu tiên được tổ chức vào năm năm 1239. Những năm chống giặc Nguyên Mông, lễ khai ấn bị gián đoạn tới năm 1262 mới được mở lại.
- Nhân dân duy trì nhiều năm, đến nay lễ khai ấn Đền Trần vẫn được duy trì, phát triển. Lễ khai ấn được cố định tổ chức vào ngày rằm tháng Giêng hàng năm, lúc 11 giờ đêm ngày 14 đến 1 giờ sáng ngày 15.
=> Khai ấn vào thời điểm này mang ý nghĩa như tín hiệu đánh dấu kết thúc những ngày tết cổ truyền dân tộc, nhắc nhở nhân dân tiếp tục công cuộc lao động sản xuất.
- Ngoài ra, lễ hội đền Trần còn có cả lễ hội lớn được mở vào 15 đến 20 tháng 8 âm lịch hằng năm với nghi thức lễ rước từ các đền xung quanh về dâng hương và tề tựu ở đền Thiên Trường và Cố Trạch.
* Nghi lễ diễn ra trong lễ hội
- Tại đền Cố Trạch, thế hệ lão ông, lão bà khoác lên mình áo dài khăn xếp cùng dân làng tề tựu đông đủ để tham dự lễ tế thánh rồi dự lễ khai ấn.
+ Đúng giờ Tý (khoảng 23 giờ - 1 giờ đêm), buổi lễ bắt đầu. Đoàn người rước hòm ấn tiến sang đền Thiên Trường. Họ dâng hương tế cáo trời đất tại bàn thờ Trung thiên, rồi rước ấn vào nội cung, đặt ấn tại ban công đồng làm lễ xin khai ấn.
+ Người bồi tế đặt 1 loại giấy dân gian của Việt Nam lên trước tế chính. Giấy sau khi xin dấu son được chia phát cho những người có mặt trong buổi lễ, đem về treo trong nhà để lấy may và xua đuổi rủi ro, tà ám.
- Sáng ngày 15 tháng Giêng, dân làng sẽ tổ chức rước nước.
+ Dân làng xin hương rồi nghênh kiệu, làm lễ, tiến ra bờ sông Hồng
+ Tại bến Hữu Bị dừng kiệu, chèo thuyền ra giữa sông, múc nước trong vào bình sẵn rồi rước theo đường cũ về đền. Nước trong bình sau đó sẽ được múc ra các bát đặt lên bàn thờ để tiến hành tế nước. Tế xong thì đưa cho con cháu họ Trần uống ghi nhớ cội nguồn tổ tiên.
- Đến ngày 16 buổi sáng, lễ tế cá sẽ diễn ra tại đền Thiên Trường.
- Bên cạnh đó cũng có rất nhiều trò chơi dân gian đặc sắc. Không khí náo nhiệt, vui tươi, ngập tràn màu sắc và hơi thở truyền thống dân tộc.
* Ý nghĩa của lễ hội trong văn hóa Việt
- Lễ hội đền Trần không chỉ mang giá trị vật thể mà còn có giá trị tinh thần vô cùng sâu sắc.
- Lễ hội là một nét đẹp văn hóa độc đáo thu hút du khách trong và ngoài nước.
III. Kết bài: Khẳng định lại ý nghĩa và giá trị văn hóa của lễ hội đền Trần
Bài siêu ngắn Mẫu 1
Suốt từ thời kỳ xa xưa, lễ hội đã trở thành một điểm đặc biệt, nơi ghi chép những nét đẹp tâm linh của phong tục truyền thống Việt Nam. Đặc biệt, mỗi khi xuân về, trăm hoa nở rộ, tạo nên bầu không khí tươi mới, đầy sức sống, và lúc này, không ít lễ hội xuất hiện để chung vui trong niềm hân hoan của cộng đồng. Trong số đó, lễ hội đền Trần nổi tiếng là một trong những sự kiện lễ hội đặc sắc của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội đền Trần không chỉ đơn thuần là sự kiện, mà còn là một kết hợp hài hòa giữa lễ khai ấn và lễ hội lớn. Nó được biết đến như một dịp tri ân các vị vua Trần và liên quan chặt chẽ đến lịch sử của đền Trần. Đền Trần, nằm tại đường Trần Thừa, thành phố Nam Định, là ngôi đền thờ các vị vua Trần và các quan phò tá. Mặc dù được xây dựng lại năm 1965 trên nền Thái Miếu cũ, nhưng nó đã bị phá hủy vào thế kỷ XV bởi giặc Minh. Đền Trần bao gồm ba công trình chính là đền Thiên Trường, đền Cố Trạch và đền Trùng Hoa, và đến năm 1705, đền chính thức mang tên Trần Miếu.
Lễ khai ấn đền Trần đã bắt đầu từ năm 1239, đánh dấu sự khởi đầu của nghi lễ triều đại nhà Trần với mục đích tế tiên tổ. Trong thời kỳ chống giặc Nguyên Mông, nhà Trần thực hiện "vườn không nhà trống", đưa toàn bộ quân về Thiên Trường, làm cho lễ khai ấn bị gián đoạn đến năm 1262 mới được mở lại. Đặc biệt, năm 1822, vua Minh Mạng đã ghé thăm và khắc lại ấn để nhắc nhở về "Trần triều điển cố" và "Tích phúc vô cương". Lễ khai ấn diễn ra vào ngày rằm tháng Giêng hàng năm, mang ý nghĩa của sự kết thúc của chuỗi ngày tết truyền thống và mở đầu cho công việc sản xuất mới.
Ngoài lễ khai ấn, lễ hội đền Trần còn có phần lớn được tổ chức từ ngày 15 đến 20 tháng 8 âm lịch, với nghi thức lễ rước từ các đền xung quanh để dâng hương và tế tự ở đền Thiên Trường và Cố Trạch.
Nghi lễ trong lễ hội đền Trần đem lại những trải nghiệm sâu sắc. Lễ khai ấn, nghi lễ triều đại, và lễ rước nước là những nét độc đáo và trang trọng của lễ hội. Sự kết hợp giữa nghi thức tôn giáo và truyền thống dân gian mang đến không khí linh thiêng và trang trọng.
Lễ hội không chỉ là sự kiện văn hóa mà còn là dịp để những trò chơi dân gian như chọi gà, đấu vật, múa lân, chơi cờ thẻ, đi cầu kiều, hát văn, và nhiều hoạt động vui nhộn khác được diễn ra. Điều này không chỉ làm phong phú lễ hội mà còn tạo nên không khí sôi động, vui tươi, thu hút người tham gia và du khách.
Lễ hội đền Trần không chỉ là một sự kiện, mà còn là biểu tượng của lòng tự hào và lòng biết ơn của người con Nam Định cũng như của cả dân tộc Việt Nam. Nó thể hiện sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và đương đại. Lễ hội này không chỉ là một nét đẹp văn hóa, mà còn là điểm đến hấp dẫn cho du khách muốn hiểu rõ hơn về lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Bài siêu ngắn Mẫu 2
Ngày xuân gia đình sum vầy, ngày xuân chim muông khoe sắc, cây cối đâm chồi nảy lộc. Ngày xuân cũng là thời điểm diễn ra rất nhiều lễ hội đặc sắc. Từ xa xưa, những lễ hội đã trở thành một phần không thể thiếu của ngày xuân về trên đất Việt. Nhắc đến lễ hội đặc trưng ngày xuân, không thể không nhắc lễ hội khai ấn đền Trần.
Lễ hội khai ấn đền Trần là một trong những lễ hội đầu xuân nổi tiếng nhất Việt Nam nhằm tri ân công đức các vị vua Trần. Sự ra đời của lễ hội gắn với lịch sử của đền Trần.
Đền Trần ở đường Trần Thừa, thành phố Nam Định là nơi thờ 14 vị vua cùng các quan lại phò tá nhà Trần. Đền Trần được được xây dựng trên nền Thái Miếu cũ của nhà Trần đã bị quân Minh phá hủy vào thế kỉ XV. Dòng họ Trần dựng nghiệp ở vùng đất Tức Mạc. Đó là vùng đất phát tích đế vương. Năm 1239, vua Trần cho dựng cung điện nhà cửa. Năm 1262, vua Trần Thánh Tông mở yến tiệc đổi Tức Mạc thành phủ Thiên Trường, xây thành đô, cung điện nguy nga tráng lệ. Phủ Thiên Trường là kinh đô thứ 2 sau Thăng Long. Sau khi nhà Trần suy vong, đền đài cung điện thành phế tích.
Sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Minh, người dân nơi đây luôn tưởng nhớ tới công lao to lớn của vương triều Trần. Nhân dân dựng đền thờ phụng và mở hội để ghi lại những dấu ấn không thể phai mờ, bày tỏ lòng tri ân.
Theo tư liệu ghi lại thì đền Trần lúc đầu gọi là nhà thờ Đại tôn. Đến năm 1695, đền mới được dựng bằng gỗ lim. Năm 1705 chính thức gọi là Trần Miếu (miếu nhà Trần). Năm 1852, đền Thiên Trường được sửa lớn, khi đó đào được tấm bia đá có dòng chữ “Hưng Đạo thân vương Cố Trạch” (Nhà của Hưng Đạo vương ở Cố Trạch). Từ đó dân dựng đền Cố Trạch để thờ Hưng Đạo Vương, phụ mẫu ông và vợ của ông là Thiên Thành công chúa.
Đền Trần gồm có 3 công trình kiến trúc gồm: đền Thiên Trường (đền Thượng), đền Cố Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Trước khi vào đền, ta phải qua hệ thống cổng ngũ môn. Qua cổng là một hồ nước hình chữ nhật. Chính giữa phía sau hồ là khu đền Thiên Trường. Phía Tây đền Thiên Trường là đền Trùng Hoa, phía Đông là đền Cố Trạch. Cả 3 đều có kiến trúc chung và quy mô ngang nhau. Mỗi đền gồm tòa Tiền Đường 5 gian, tòa Trung Đường 5 gian và tòa Chính Tổng 3 gian.
Thời chống quân Nguyên Mông nhà Trần thực hiện chính sách vườn không nhà trống nên rút toàn bộ quân về Thiên Trường. Trải qua bao phong ba lịch sử, ấn cũ của triều Trần bị thất lạc. Cho đến những năm 1822, vua Minh Mạng có ghé thăm Thiên Trường và cho khắc lại ấn. Ấn cũ khắc là "Trần triều chi bảo", ấn mới khắc là "Trần triều điển cố" để nhắc lại tích cũ, dưới đó có thêm câu "Tích phúc vô cương". Lễ hội đền Trần trước khi bắt đầu phải khai ấn.
Lễ khai ấn đầu tiên được bắt đầu vào thời đại nhà Trần vào khoảng thế kỷ thứ XIII, sử sách ghi lại là vào những năm 1239. Đây là nghi lễ tế tổ tiên của dòng họ nhà Trần. Vua Trần mở tiệc chiêu đãi và phong chức cho những vị quan có công với triều đình tại Phủ Thiên Trường. Đến khi chống giặc Mông lễ hội bị gián đoạn, không được tổ chức. Năm 1269 mới được Trần Thánh Tông mở lễ lại.
Từ đó lễ khai ấn Đền Trần được cố định thường niên vào ngày rằm tháng Giêng lúc 11 giờ đêm ngày 14 đến 1 giờ sáng ngày 15. Đây cũng được coi là tín hiệu nhắc nhở kết thúc những ngày tết cổ truyền dân tộc để tiếp tục công cuộc lao động sản xuất.
Khi vào hội, các làng phải rước kiệu về đền Thiên Trường tế các vua Trần. Các lão ông, lão bà mặc áo dài khăn xếp cùng dân làng tề tựu tại đền Cố Trạch làm lễ tế thánh rồi dự lễ khai ấn. Hòm ấn được đặt trang trọng trên bàn thờ. Trong hòm có 2 con dấu bằng gỗ. Trên mặt ấn nhỏ có khắc hai chữ “Trần Miếu”, còn trên mặt ấn lớn có dòng chữ “Trần triều tự điển” cùng hàng chữ nhỏ “tích phúc vô cương”.
Vào đúng giờ Tý khoảng 23 giờ - 1 giờ, người tế chính làm lễ ở đền Cố Trạch, xin rước ấn lên kiệu sang đền Thiên Trường, dâng hương tế cáo trời đất tại bàn thờ Trung thiên, rồi rước ấn vào nội cung, đặt ấn tại ban công đồng làm lễ xin khai ấn.
Người bồi tế đặt giấy “điệp”- 1 loại giấy dân gian của Việt Nam lên trước tế chính, chiêng trống nổi lên. Chủ tế trịnh trọng đóng ấn mực đỏ vào tờ “giấy điệp”, cạnh dấu son trên tờ điệp phải đề rõ ngày, tháng, năm, viết sao cho đủ chữ để khi tính đến chữ cuối phải là chữ sinh. Người được tờ “điệp” đã được đóng ấn đưa về treo tại đền, phủ, từ đường, hay tại nhà, với hy vọng trừ được ma quỷ và mọi rủi ro, được may mắn trong công việc và đời sống trong năm, được mọi sự tốt lành như ý.
Sáng ngày 15 tháng Giêng, tổ chức rước nước. Trước khi đi, người tế chính vào lễ xin một nén hương ở bát hương tổ và 14 nén hương ở các bát hương Hoàng đế, cắm vào bát nhang công đồng trên kiệu 8 chân. Đoàn rước mặc lễ phục trang nghiêm cùng cờ biển uy nghi, nghênh kiệu ra cổng đền, rồi dừng lại làm lễ tế trời đất. Đám rước tiếp tục ra bến sông Hồng trên bến Hữu Bị cách đền khoảng 3 km.
Kiệu dừng lại, Ban tổ chức đưa bình đựng nước xuống thuyền, thuyền có trang trí cờ hoa rực rỡ, gióng trống chèo ra giữa sông. Người tế chính múc nước trong vào bình, khi bình đầy nước thì đưa vào đặt lên kiệu, và lại theo đường cũ rước nước về đền. Nước trong bình được múc ra các bát để lên bàn thờ tiến hành tế nước. Tế xong, nước này ban cho con cháu họ Trần uống để không quên nguồn gốc tổ tiên.
Sáng ngày 16 tháng Giêng, có lệ tế cá tại đền Thiên Trường. Cá được đựng trong các thùng sơn đỏ có nước gồm cá quả, chép ứng với Trần Kinh và Trần Lý là hai vị tổ họ Trần. Trước đây cá đựng trong 11 thúng sơn đỏ. Một đôi cá quả nặng chừng 2kg, còn cá chép mỗi con nặng 2kg. Tế cá từ sáng sớm tới trưa, rồi rước cá thả ra sông Hồng. Bên ngoài tổ chức các trò chơi dân gian đông vui.
Hằng năm, người dân từ khắp nơi đổ về đền Trần vào đêm khai ấn, bày tỏ lòng thành kính biết ơn và dâng lễ cầu mong công danh, sức khỏe, sự nghiệp.
Lễ khai ấn đền Trần là một phong tục tốt đẹp, một hoạt động văn hóa mang tính nhân văn sâu sắc thể hiện truyền thống yêu nước và đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của nhân dân ta. Đồng thời đây cũng là một lễ hội đặc trưng ngày xuân, là niềm tự hào của người dân Nam Định từ bao đời nay.
Bài tham khảo
Khu di tích đền Trần gồm các hạng mục: ngũ môn, hồ nước, nghi môn, giải vũ, đền Thiên Trường, đền Cổ Trạch và đền Trùng Hoa.
Ngũ môn Ngũ môn gồm năm cửa (ba cửa lớn và hai cửa nhỏ). Bước qua ngũ môn vào bên trong sẽ thấy hồ nước có diện tích khoảng 1.000m2. Hồ thoáng, cảnh trí đẹp, cây cao in bóng xuống mặt hồ rất nên thơ, lãng mạn.
Đền nằm chính giữa khu di tích là đền Thiên Trường. Chuyện kể rằng, khi khởi dựng, đền có ba gian, kết cấu bằng gỗ lim. Đến niên hiệu Long Đức 2 (1733), đền được mở rộng, với năm gian tiền đường, kết cấu bằng gỗ lim.
Bao quanh đền là các hạng mục kiến trúc như: nghi môn, sân trong, hai nhà giải vũ, tiền đường, thiêu hương, tả vu, hữu vu, hậu cung.
Trong sân đền Thiên Trường Tiền đường dài 12m, rộng 6,6m, gồm năm gian. Hai cánh cửa gian giữa bằng gỗ lim, được làm công phu nhất, với họa tiết lưỡng long chầu nguyệt, mang phong cách nghệ thuật thời hậu Lê, thế kỷ XVII. Bộ khung tiền đường bằng gỗ lim, với bốn hàng chân cột, chân tảng đá chạm hoa văn hình cánh sen, mang phong cách nghệ thuật thời Trần, thế kỷ XIII-XIV.
Tất cả các hạng mục kiến trúc đền Thiên Trường hợp thành thế tay ngai, đối xứng với nhau theo trục Bắc – Nam.
Đền Cổ Trạch Nằm ở phía đông đền Thiên Trường là đền Cổ Trạch. Mặt bằng kiến trúc có bố cục dạng tiền chữ “Nhất”, hậu chữ “Đinh”, gồm các hạng mục: nghi môn, sân trong, giải vũ phía đông, tiền đường, thiêu hương, tả vu, hữu vu, trung đường, hậu cung.
Nằm ở phía tây đền Thiên Trường là đền Trùng Hoa, kiến trúc gồm: tiền đường, thiêu hương, trung đường và cung cấm. Khung nhà được dựng bằng gỗ lim, các tòa đều thiết kế theo kiểu bốn mái, với bốn đầu đao được uốn cong tạo dáng mềm mại, thanh thoát.
Trong đền Trùng Hoa có 14 pho tượng bằng đồng của 14 hoàng đế nhà Trần đặt tại tòa trung đường và tòa chính tẩm.
Đền Trùng Hoa Lễ hội ở đền Trần diễn ra ba ngày, từ 13-15 tháng Giêng Âm lịch hằng năm, mở đầu bằng lễ khai ấn bắt đầu từ giờ Tý (giữa đêm). Lễ khai ấn đền Trần là một trong những tập tục được gìn giữ từ năm 1239, triều đại nhà Trần thực hiện nghi lễ tế tiên tổ.
Tại phủ Thiên Trường, vua Trần mở tiệc chiêu đãi và phong chức cho những quan quân có công. Những năm kháng chiến chống Nguyên – Mông và sau đó lễ khai ấn bị gián đoạn cho tới năm 1262 được Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho mở lại. Trải qua nhiều năm, lễ khai ấn đền Trần vẫn được người dân duy trì và phát triển.
Trải bao thế kỷ, ấn cũ không còn. Năm 1822, vua Minh Mạng qua Ninh Bình có ghé lại đây và cho khắc lại.Ấn cũ khắc là “Trần triều chi bảo”, ấn mới khắc là “Trần triều điển cố” để nhắc lại tích cũ.
Quang cảnh đền Trần Dưới đó có thêm câu “Tích phúc vô cương”. Trong lễ khai ấn nhà vua tế lễ Trời, Đất, Tiên tổ thể hiện lòng thành kính biết ơn non sông, cha ông. Và cũng là thông điệp nhắc nhở người dân đã hết tết để bắt tay vào công việc.
Ngoài ra còn có lễ hội lớn được mở vào dịp từ 15-20 tháng 8 Âm lịch hằng năm với lễ rước từ các đền chùa xung quanh về làm lễ dâng hương và tế tự ở đền Thiên Trường và Cố Trạch.
Các đám rước gồm có: cờ, bát kiệu, kiệu long đình, đội trống nhạc lễ cùng đông đủ các bô lão và dân các làng xung quanh tham dự. Khi đám rước về đến đền thì bắt đầu nghi lễ.
Sau phần lễ là phần hội với các sinh hoạt văn hóa phong phú và độc đáo như hội diễn võ của ba thế hệ (ông, cha, con), đấu vật, múa rồng, múa sư tử, hội chọi gà, ném vòng cổ chai, chơi đu, chơi cờ thẻ…
Không chỉ ngày lễ hội, đền Trần quanh năm đều có du khách thăm viếng, là điểm tham quan của các bạn trẻ những ngày nghỉ cuối tuần.
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 6 - Kết nối tri thức - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục
- Chia sẻ một trải nghiệm về nơi em sống hoặc từng đến: Một vùng hương quế Trà Bồng lớp 6
- Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Đất nước lớp 6
- Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Trời xanh của mỗi người lớp 6
- Viết đoạn văn thể hiện cảm xúc về ca dao: Con cò mà đi ăn đêm lớp 6
- Viết đoạn văn thể hiện cảm xúc về bài ca dao: Anh đi anh nhớ quê nhà lớp 6
- Chia sẻ một trải nghiệm về nơi em sống hoặc từng đến: Một vùng hương quế Trà Bồng lớp 6
- Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Đất nước lớp 6
- Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về bài thơ Trời xanh của mỗi người lớp 6
- Viết đoạn văn thể hiện cảm xúc về ca dao: Con cò mà đi ăn đêm lớp 6
- Viết đoạn văn thể hiện cảm xúc về bài ca dao: Anh đi anh nhớ quê nhà lớp 6