Huyền Quang


0:00
/
10:40
Chọn giọng đọc
Download
Playback seep

Đọc truyện: Huyền Quang

Vào thời nhà Trần có một người học trò trẻ tuổi ở xứ Bắc tên là Huyền Quang. Nhà chàng không đất cắm dùi. Nhưng cha mẹ chàng thì cố công cố sức làm thuê làm mướn khắp nơi để nuôi con ăn học. Khi Huyền Quang đến tuổi lấy vợ, cha mẹ dạm cho một cô gái, con một nhà khá giả trong vùng.

Trải qua mấy năm trời, chàng đã từng sêu tết và đi làm rể bên nhà vợ khá là vất vả. Cho đến ngày gia đình sắm sanh lễ vật xin cưới, thì đột nhiên bên nhà gái trở mặt, trả lễ vật lại và từ hôn. Huyền Quang lấy làm buồn lòng vì thói đời tráo trở; chàng càng đau lòng hơn khi thấy cô gái ấy thuận lấy người cháu họ một viên quan phủ sứ.

Sau đó, cha mẹ chàng lại tìm cho con một đám khác, nhưng cuộc nhân duyên lần này cũng dở dang, chỉ vì nhà gái chê nhà trai không có mả làm nên, không phải là nơi nương tựa. Vì vậy, cho đến năm hai mươi tuổi, Huyền Quang vẫn một thân một mình.

Từ khi thất vọng về đường tình duyên, Huyền Quang lại càng quyết chí về đường kinh sử. Năm hai mươi hai tuổi, chàng thi đậu ở trường thi quê nhà, rồi vào thi đình đậu luôn trạng nguyên.

Nghe tin Huyền Quang đậu trạng, có mấy tay phú hộ ở quanh vùng bắn tin có con gái đến tuổi lấy chồng kèm theo cả một tư cơ đồ sộ. Một ông quan lớn ở kinh kỳ cũng mời quan tân khoa về thái ấp mình để xem mặt cô con gái yêu tuổi vừa đôi tám. Tiếp đó, ngày chàng vào kinh bái mạng để nhậm chức, một viên nội giám đến gặp riêng chàng và rỉ tai:

- Hoàng hậu đang kén phò mã cho công chúa ba đấy. Nếu quan trạng muốn, thì việc tốt đẹp nhất định phải thành.

Thấy tình đời như vậy, Huyền Quang than:

Khó khăn thì chẳng ai nhìn,

Đến khi đỗ trạng tám nghìn nhân duyên.

Than đoạn, chàng nguyện suốt đời sẽ không lấy vợ. Thế rồi người ta thấy chàng nhất quyết từ chối mọi hứa hẹn tốt đẹp. Nhưng cuộc đời danh vọng của Huyền Quang cũng không làm cho chàng vui lòng. Nhìn thấy những cảnh tượng xấu xa trong đám quan trường, chàng lại càng ghê tởm. Từ đấy Huyền Quang tỏ ra chán đời. Làm quan chưa được bao lâu, chàng đã đệ đơn lên vua xin từ chức để đi tu. Bấy giờ cha mẹ chàng đã nối gót nhau qua đời.

Vua không thể nào bắt ép chí của chàng được. Huyền Quang tu hành rất chăm chỉ. Chẳng bao lâu, chàng đã thông thuộc tất cả kho tàng kinh sách của nhà Phật. Rồi đó, nhờ có học vấn không ai bì kịp, Huyền Quang được nhà vua ban cho danh hiệu quốc sư. Vua còn cho chàng trông nom viện Trúc Lâm và cho trụ trì ở một ngôi chùa lớn, cai quản hàng mấy nghìn tăng ni. Còn ít tuổi như chàng được trở thành một bậc giáo chủ, người đời bấy giờ coi là việc hiếm có.

Hồi bấy giờ vua Anh Tông mới lên ngai vàng. Thấy vị tổ Trúc Lâm là một người còn ít tuổi, vua không tin là có thể chịu nổi sự diệt dục khổ hạnh. “Cứ đưa đến một cô gái đẹp, nhất định thế nào thầy cũng sa ngã”. Nghĩ vậy, vua có ý định thử xem đạo đức của vị tổ trẻ tuổi này như thế nào. Nhân mấy ngày hoàng hậu se mình, vua cho triệu tổ về kinh làm lễ cầu siêu. Sau mấy đêm ngày, công việc cầu siêu đã xong, trước khi Huyền Quang trở về chùa, vua đem cho mười lạng vàng để đền công khó nhọc.

Huyền Quang không tiện chối từ, đành phải cầm lấy, nhưng Huyền Quang đâu có ngờ rằng cái bẫy đã bắt đầu giương ra để đợi người nhẹ dạ.

Thế rồi sau đó ít lâu, vua cho một cung nữ nhan sắc xinh đẹp tên là Điểm Bích, tìm cách đến chùa, nơi Huyền Quang trụ trì, bảo phải quyến rũ cho bằng được. Vua còn dặn Điểm Bích phải làm sao lấy ở sư thầy ít nhất là một lạng vàng đưa về làm tang chứng.

Lại nói chuyện Huyền Quang hôm ấy nghỉ tại một Thiền trai cất trên một ngọn đồi, cách viện Trúc Lâm chừng vài dặm. Đây là một gian nhà nhỏ rất tĩnh mịch mà vua sai xây cho nhà sư trẻ để nghỉ ngơi sau những ngày giảng kinh mệt nhọc. Vào khoảng tắt mặt trời, chú tiểu đưa về một cô gái, vẻ mặt hốt hoảng nhợt nhạt, áo xống tơi tả.

- Bạch thầy, người này bị cướp đuổi vừa gọi cửa kêu cứu.

Đó là Điểm Bích lúc này đã cải trang thành một cô gái quê mùa. Nàng khóc sướt mướt, một hai xin nhà chùa cho ở trọ đêm nay. Nàng bịa ra câu chuyện bị côn đồ đuổi và phải chạy trốn vất vả như thế nào, làm cho Huyền Quang không thể từ chối được. Cuối cùng theo lệnh của Huyền Quang, chú tiểu sắp xếp cho Điểm Bích một chỗ nghỉ ở phía ngoài Thiền trai.

Sự việc xảy ra làm cho Huyền Quang thấy trong lòng không được yên tĩnh, ông để cho chú tiểu đi nghỉ, rồi giở quyển kinh ra tụng niệm mãi tới khuya. Sắp sửa đặt lưng xuống giường, nhà sư bỗng nghe tiếng rên rỉ của người đàn bà. Huyền Quang phải đánh thức chú tiểu dậy xem thử thế nào. Khi nghe nói người đàn bà muốn xin được vào nằm phía trong Thiền Trai, vì ở ngoài không ngăn được sự sợ hãi, Huyền Quang lấy làm bối rối. Nhà thì hẹp chỉ có ba gian, nhân thân chỉ có hai thầy trò, các tăng chúng đều ở xa không tiện gọi.

Suy nghĩ giây lát, Huyền Quang bất đắc dĩ cho người đàn bà vào ở chỗ tiếp khách, còn mình thì lui vào Trai phòng khóa cửa lại. Nhưng vừa chợp đi được một lúc, đã lại nghe tiếng rên rỉ ở phía ngoài. Nhà sư lại ngồi dậy cầm lấy tràng hạt và quyển kinh. Nhưng khi bước ra khỏi Trai phòng, qua ánh đèn dầu le lói nhà sư đã thấy người đàn bà nằm lõa lồ trên bộ ván, liền vội vã bước trở vào và quyết định ngồi trên giường tụng niệm cho tới sáng để tránh sự cám dỗ. Không ngờ giữa lúc những tiếng tụng niệm cất lên, thì Điểm Bích đã ở đâu sán lại ngồi bên cạnh nhà sư nói những câu cảm ơn nhưng lại xen vào nhiều lời khêu gợi.

Biết người đàn bà này đến đây có mục đích không lương thiện. Huyền Quang liền nghiêm nét mặt lại:

- A di đà phật! Tín nữ là ai? Tại sao lại tìm đường vào đây để quấy rối những người tu hành? Nếu không mau cải tà quy chính, ta sẽ hô hoán lên cho mọi người đến cầm lá dắt ra khỏi tu viện.

Thấy Huyền Quang không phải là hạng người dễ quyến rũ, Điểm Bích đành phải thay đổi thái độ. Nàng chuyển sang bộ mặt rầu rĩ và bịa ra câu chuyện để gợi lòng trắc ẩn:

- Thiếp vốn là con nhà thế phiệt. Bố thiếp làm quan một huyện ở vùng biển. Mùa tháng năm vừa rồi nhân đi thu thuế được ba nghìn quan, cho dân phu đài tải về kinh. Không ngờ bị bọn cướp đường, đón lấy mất cả. Quan trên thương tình cho khất đến cuối năm. Hiện nay bố thiếp thu góp tư trang mới được chừng một nửa. Bởi vậy, thiếp phải đi khắp đó đây xin các nhà từ thiện, kẻ ít người nhiều để bù vào số thiếu. Hôm nay thiếp đánh bạo đến đây, định xin hòa thượng rủ lòng thương xót, nguyên cấp cho ít nhiều. Nhưng thấy cảnh chùa tôn nghiêm, nếu nói thật chưa chắc đã được, vì vậy phải dùng mẹo nhỏ để gặp hòa thượng, sau đó mới tỏ bày mục đích. Dám xin hòa thượng mở lượng hải hà, cứu vớt lấy bố thiếp và cả nhà thiếp. Thiếp nguyện đưa thân nữ tì hầu hạ suốt đời.

Nghe nàng sụt sùi kể lể, Huyền Quang không ngăn được cảm động, bèn vội trả lời:

- Tín nữ đừng có lo lắng gì cả. Ngày mai ta sẽ tín triều, tâu với vua xin tha tội cho tín nữ.

Sợ Huyền Quang về triều thì việc của mình không đạt, Điểm Bích lại nói:

- Bạch hòa thượng, việc của bố thiếp còn may là chưa đến tai thánh thượng. Hòa thượng về tâu giúp cho thật là công đức vô biên, nhưng thiếp không muốn vì việc nhà thiếp làm phiền hòa thượng phải xuống núi nhọc sức.

Huyền Quang sực nhớ tới mười nén vàng của vua còn bày ở Trai phòng. Nhà sư vội lấy ra đưa cho người đàn bà mà rằng:

- Ta biếu cho tín nữ tất cả, hãy đưa về mà chuộc tội cho cha.

Lại nói chuyện khi trở về cung, Điểm Bích liền đưa nộp mười nén vàng, và tâu dối với vua rằng mình đã cám dỗ được con mồi. Để vua tin, nàng còn đọc lên một bài thơ yêu đương, nói là của Huyền Quang đã ngâm tặng mình trước khi phá giới.

Vằng vặc trong mai ánh nước,

Hiu hiu gió trúc ngâm sinh.

Người vừa tươi tốt, cảnh vừa lạ,

Mâu Thích Ca nào chẳng hữu tình.

Nghe xong câu chuyện và nhìn thấy mấy nén vàng, vua thở dài hối hận:

- Chao ôi! Bậy quá! Ta đã làm hại một vị tu hành trẻ tuổi. Tự dưng vô cớ đi gài bẫy nhất định con chim khó thể tránh được. Biết làm thế nào bây giờ?

Nghe nói thế, một viên quan ghé vào tai vua hiến kế:

- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ cho thiết lập một lễ cúng Phật, dọn toàn cỗ mặn rồi mời thầy về làm lễ. Nếu quả là thầy còn trong sạch, thì chư phật sẽ độ cho cỗ mặn hóa ra chay, nhược bằng đã hư hỏng rồi thì chẳng bao giờ được độ.

Vua cho là phải, bèn hạ lệnh cho gọi Huyền Quang về triều đứng cúng một lễ chay trọng thể, vào dịp rằm tháng bảy sắp tới. Vua còn bắt quân hầu dựng một đàn tràng nguy nga, các rạp đều trần trướng toàn bằng lụa hoàng quyên. Trái hẳn với tục lệ nhà chùa, hôm trước vào chính lễ, vua ra lệnh cho giết bò và lợn, dọn toàn cỗ mặn.

Khi sắp bước vào rạp, Huyền Quang biết nhà vua cố ý làm nhục mình. Các mâm cỗ mặn tanh tưởi bày trên bàn kia, nếu không phải là một sự sỉ vả thì còn gì nữa, lụa hoàng quyên nói lại rõ ràng, ám chỉ hai tiếng "Huyền Quang". Nhà sư bèn ngửa mặt lên trời, lớn tiếng khấn:

- Kẻ đệ tử này nếu có điều gì bất chính, xin cho Phật cho đày xuống a tỳ địa ngục, còn nếu không, thì xin cho những cỗ mặn kia hóa thành chay tất cả!

Tự nhiên một trận gió mạnh nổi lên, cát bụi bay mù mịt, trời đất tối sầm cả lại. Một chốc gió tan, mọi người nhìn lên đàn tràng, thì lạ thay tất cả các mâm cỗ mặn biến thành cỗ chay tinh khiết thơm tho, mọi mùi tanh tưởi đều đã bị quét sạch từ bao giờ. Huyền Quang thủng thỉnh bước lên đàn tràng giữa tiếng reo hò của chúng tăng và mọi người. Vua Anh Tông được tin, lập tức ra lệnh bắt Điểm Bích tra hỏi cho ra sự thật. Biết là bại lộ, người cung nữ ấy cúi đầu thú hết tội lỗi. Vua truyền bắt Điểm Bích bỏ ngục để chờ ngày phán xử, rồi xa giá tới gặp Huyền Quang tạ lỗi. Câu nói đầu tiên của Huyền Quang là xin vua tha tội cho Điểm Bích.

Bài học rút ra

Danh vọng, tiền bạc chỉ là chuyện nhỏ

  • Lúc nghèo, Huyền Quang bị người ta chê bai, không ai muốn gả con gái cho. Nhưng khi chàng đỗ Trạng nguyên, bỗng nhiên ai cũng muốn kết duyên. Sự thay đổi thái độ này cho thấy lòng người dễ thay đổi thế nào, họ chỉ quan tâm đến chức vị và tiền tài chứ không phải con người thật.
  • Đừng quá coi trọng tiền bạc hay danh tiếng, vì chúng không bền. Hãy sống thật với bản thân, giữ cho mình một nhân cách tốt.

Sức mạnh của trí tuệ và lòng tốt

  • Mặc dù bị Điểm Bích lừa dối, Huyền Quang vẫn dùng lòng tốt của mình để giúp đỡ nàng, thậm chí còn cho hết số vàng quý giá. Khi vua nghi ngờ và tìm cách làm nhục, ông không hề oán trách mà chỉ tin vào sự trong sạch của mình. Chính điều đó đã tạo nên phép lạ. Sau khi được minh oan, ông lại xin vua tha tội cho người đã hãm hại mình.
  • Lòng tốt và sự thông thái là hai điều giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn. Biết tha thứ cho người khác là phẩm chất đáng quý nhất, thể hiện một tâm hồn cao thượng.

Đố vui qua truyện Huyền Quang


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu
  • Hoàng hậu Tàu ở Việt Nam - Truyện cổ tích

    Thời nhà Trần, tại tỉnh Nghệ An có ông câu rất nghèo. Năm đó ngày mồng một tháng Sáu, ông ra vàm rạch bỗng gặp một khúc cây to lớn tấp lên bãi. Ông lên đó mà ngồi, chặt mồi ra từng khúc nhỏ để câu. Dè đâu khi lưỡi dao chạm vào, cây nọ tươm máu ra, lại có phảng phất mùi thơm tho kỳ diệu.

  • Chim gõ kiến, cáo và quạ - Truyện cổ tích

    Chim gõ kiến mổ một hốc trên thân cây liễu hoàn diệp, làm tổ ở đấy rồi đẻ trứng, ấp được ba con. Bầy con nhỏ khôn lớn dần, chim gõ kiến mẹ lòng vui khấp khởi. Nó nghĩ thầm: “Ta nuôi cho chúng khôn lớn, về già chúng sẽ đỡ đần ta".

  • Hai ông tướng Đá Rãi - Truyện cổ tích

    Dưới thời nhà Lý, có một ông vua, một hôm đi du ngoạn về miền núi xứ Đoài, tự nhiên thấy ở sườn núi nứt ra một khe rộng, rồi từ trong đi ra hai người to lớn lạ thường, mỗi người vác trên vai một phiến đá tảng như cái bồ, coi bộ không có gì là mệt nhọc.

  • Lý Ông Trọng - Truyện cổ tích

    Ngày xưa, ở làng Chèm có một người họ Lý khỏe mạnh lạ thường. Đặc biệt thân thể của anh to quá khổ, đo được hai trượng sáu thước bề cao. Vì thế đi đâu ai cũng kính sợ, người ta gọi là Ông Trọng.

  • Mưu kẻ trộm- Truyện cổ tích

    Xưa, có tên nọ lười biếng, không chịu làm lụng nhưng có tật muốn ăn ngon. Hôm đó hắn đi qua làng bên cạnh thấy con vịt mập đang đứng ngủ bên bờ ao. Ban ngày, nếu ăn cắp thì khó lòng chạy trốn được.

>> Xem thêm