Soạn bài Ôn tập trang 57 SGK Ngữ văn 12 tập 2 Chân trời sáng tạo>
Bạn hình dung như thế nào về đời sống thành thị trong các đoạn trích đã học? Liên hệ và so sánh với đời sống thành thị ngày nay. Kẻ bảng so sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa tiểu thuyết trung đại và tiểu thuyết hiện đại.
Tổng hợp đề thi giữa kì 1 lớp 12 tất cả các môn - Chân trời sáng tạo
Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh
Câu 1
Trả lời Câu hỏi 1 trang 57 SGK Văn 12 Chân trời sáng tạo
Bạn hình dung như thế nào về đời sống thành thị trong các đoạn trích đã học? Liên hệ và so sánh với đời sống thành thị ngày nay.
Phương pháp giải:
Nhớ lại kiến thức đã học để trả lời câu hỏi
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Các đoạn trích mô tả những mặc cảm, mưu mô, và cuộc sống xô bồ của những người dân thành thị với tất cả sự thật và nghệch ngợm trong nghịch lý xã hội.
So sánh với đời sống thành thị ngày nay, ta nhìn thấy sự tiến bộ về mặt công nghệ, cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, và các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, vẫn có những vấn đề như tham nhũng, bất công, xã hội đa tầng lớp, và áp lực hàng ngày vẫn còn đe dọa đời sống của người dân thành thị. Mặc dù có sự cải thiện, nhưng vẫn cần phải cải thiện nhiều hơn để xây dựng một xã hội công bằng và phát triển bền vững.
* Hình dung của em về đời sống thành thị trong các đoạn trích đã học:
- Văn bản “Hai quan niệm về gia đình và xã hội”: nhịp sống sôi động, với sự giao thoa văn hóa Tây Âu vào Việt Nam.
- Văn bản “Ở Xa-Van”: Nơi có nhiều tầng lớp sống khác nhau, với nhiều mối quan hệ phức tạp. Nơi con người ta phải sống giả tạo với bản thân để đi lên.
- Văn bản “Áo dài đầu thế kỉ XX”: Nơi thời trang phát triển.
- Văn bản “Ngày 30 Tết”: Nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống, tốt đẹp từ bao đời.
- Văn bản “Hai quan niệm về gia đình và xã hội”: Xã hội thành thị hiện lên với nhịp sống sôi động, là nơi bắt đầu du nhập văn hóa Tây Âu vào Việt Năm những năm đầu thế kỉ XIX.
- Văn bản “Ở Xa-Van”: Nơi có nhiều tầng lớp sống khác nhau, với nhiều mối quan hệ phức tạp. Nơi con người ta phải sống giả tạo với bản thân để đi lên.
- Văn bản “Áo dài đầu thế kỉ XX”: Nơi thời trang phát triển.
- Văn bản “Ngày 30 Tết”: Nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống, tốt đẹp từ bao đời.
=> Dù ở thời kì nào thì nào thì thành thị luôn là nơi đông đúc, nhộn nhịp với nhiều giai tầng và các mối quan hệ phức tạp. Tuy nhiên, đây cũng là nơi đi đầu trong tiếp nhận và phát triển cái mới, là nơi giao thoa giữa truyền thống và hiện đại và dù ở bất kì thời kì nào, giá trị truyền thống vẫn luôn được giữ gìn, đề cao, tôn vinh và phát triển.
Câu 2
Trả lời Câu hỏi 2 trang 57 SGK Văn 12 Chân trời sáng tạo
Kẻ bảng so sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa tiểu thuyết trung đại và tiểu thuyết hiện đại.
Phương pháp giải:
Nhớ lại kiến thức đã học để trả lời câu hỏi
Lời giải chi tiết:
Tiểu thuyết hiện đại |
Tiểu thuyết trung đại |
|
Cách kể chuyện |
Kể theo trình tự thời gian |
|
Ngôi kể |
Ngôi thứ 3, tiểu thuyết hiện đại có thể kể theo ngôi thứ 1 |
|
Chữ viết |
Được viết bằng chữ quốc ngữ - chữ của dân tộc |
Sử dụng cả chữ Hán và chữ Nôm, chủ yếu là chữ Hán vì chữ Hán được xem là chữ quốc ngữ thời trung đại, mãi đến cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX với truyện Kiều của Nguyễn Du, chữ Nôm mới khẳng định được vị trí của mình. |
Cốt truyện |
Cốt truyện phức tạp, đa tuyến |
Cốt truyện của tiểu thuyết trung đại đơn giản, đơn tuyến. Truyện phát triển theo trình tự thời gian, sự kiện nào có trước được kể trước, sự việc nào có sau kể sau. Gần như không có sự đảo lộn thời gian và sự việc trong tác phẩm. |
Nhân vật |
Nhân vật được xây dựng là con người phức tạp, đa dạng trong suy nghĩ, cảm xúc, cái xấu và cái ác luôn tồn tại cùng với cái tốt, cái lương thiện buộc con người phải đấu tranh với nó. |
Vì chú trọng vào chi tiết, sự việc nên tâm lí và dòng tâm trạng, cảm xúc của nhân vật chỉ là sơ lược. |
|
Tiểu thuyết hiện đại |
|
|
Giống nhau |
- Cả hai thể loại đều tập trung vào việc phản ánh cuộc sống xã hội và tâm lý con người. - Chúng đều sử dụng các nhân vật, tình tiết và thông điệp để khai thác và phân tích sâu sắc về con người và xã hội. |
||
Khác nhau |
- Sử dụng cả chữ Hán và chữ Nôm - Chú trọng vào việc mô tả chi tiết và sự việc - Cốt truyện của tiểu thuyết trung đại thường đơn giản và đơn tuyến, phát triển theo trình tự thời gian. - Nhân vật trong tiểu thuyết trung đại thường được xây dựng đơn giản hơn, tập trung vào chi tiết và sự việc. |
- Được viết bằng chữ Quốc ngữ - Tập trung vào việc khai thác thế giới bên trong của nhân vật, như tâm trạng, cảm xúc và sự biến đổi tinh vi trong nhận thức của con người. - Kể theo trình tự thời gian tuyến tính hoặc đảo lộn thời gian, theo sự phát triển của tâm lí nhân vật. - Nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại được xây dựng phức tạp hơn, đa dạng trong suy nghĩ, cảm xúc và đấu tranh với chính mình để hoàn thiện bản thân. |
|
Câu 3
Trả lời Câu hỏi 3 trang 57 SGK Văn 12 Chân trời sáng tạo
Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp nói mỉa trong trường hợp sau:
Người chết, sau khi được quan trên khám qua loa, đã được khâm liệm đến gần một ngày rồi, vậy mà chưa thấy cụ Hồng ra lệnh phát phục, mặc dầu mọi công việc cử hành tang lễ đã quyết định xong xuôi. Phái trẻ, nghĩa là bọn dâu con, đã bắt đầu la ó lên rằng phái già chậm chạp. Cậu tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen - dernières créations!
(Vũ Trọng Phụng, Số đỏ)
Phương pháp giải:
Nhớ lại kiến thức đã học để trả lời câu hỏi
Lời giải chi tiết:
Biện pháp nói mỉa được sử dụng trong đoạn văn trên để phản ánh và lên án những hành vi và tư duy không tôn trọng, cợt nhả đối với người chết trong tang lễ của một số nhân vật:
- Biện pháp nói mỉa giúp phản ánh sự thiếu cợt nhả, lố bịch của những người tham gia buổi tang lễ. Họ không quan tâm và dành tình cảm cho người chết, mà chỉ quan tâm đến những điều vô nghĩa mà họ thích.
- Bằng việc sử dụng biện pháp nói mỉa, tác giả lên án những hành vi không tôn trọng đối với người chết trong tang lễ.
- Biện pháp nói mỉa gây tiếng cười cho độc giả, nhưng đồng thời cũng giúp họ nhận ra sự thiếu tư duy và hành vi không đúng đắn của những người tham gia buổi tang lễ.
- Biện pháp nói mỉa: hành vi và tư duy không tôn trọng, cợt nhả đối với người chết trong tang lễ của một số nhân vật.
- Tác dụng:
+ Phản ánh sự cợt nhả, lố bịch của những người tham gia buổi tang lễ. Họ không quan tâm và dành tình cảm cho người chết, mà chỉ quan tâm đến những điều vô nghĩa mà họ thích.
+ Lên án những hành vi không tôn trọng đối với người chết trong tang lễ.
Câu 4
Trả lời Câu hỏi 4 trang 57 SGK Văn 12 Chân trời sáng tạo
Bạn hãy rút ra những điều cần lưu ý khi:
a. Viết báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội.
b. Trình bày báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội.
Phương pháp giải:
Nhớ lại kiến thức đã học để trả lời câu hỏi
Lời giải chi tiết:
Cách 1
a.
Lưu ý khi viết báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội
Nội dung báo cáo trình bày chính xác, đầy đủ kết quả thực hiện của bài tập dự án.
- Ngôn ngữ chuẩn mực, khách quan, khoa học.
- Sử dụng hợp lí sơ đồ, bảng biểu để trình bày kết quả của dự án; thuyết minh các hình ảnh minh họa một cách rõ ràng, phù hợp.
- Trình bày trích dẫn, cước chú và tài liệu tham khảo đúng quy cách.
- Bố cục bài viết cần đảm bảo các phần:
Mở đầu: Giới thiệu thông tin khái quát về dự án (tên dự án, hình thức của dự án, mục tiêu, nhiệm vụ, câu hỏi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, các sản phẩm cần thực hiện, thời gian thực hiện).
Nội dung nghiên cứu: Trình bày chi tiết, rõ ràng các kết quả nghiên cứu của dự án.
Kết luận: Khái quát những nội dung chính từ kết quả nghiên cứu của dự án; nêu giải pháp hoặc vấn để cần tiếp tục nghiên cứu..
b. Trình bày báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội.
Dựa vào phần tóm tắt ý đã chuẩn bị.
- Kết hợp phù hợp và nhuần nhuyễn bài thuyết trình với phương tiện phi ngôn ngữ.
- Tương tác tích cực với người nghe, trình bày rõ ràng và tự tin.
- Khi viết báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội, có một số điều cần lưu ý.
+ Đầu tiên, bạn nên bắt đầu báo cáo bằng việc giới thiệu vấn đề xã hội mà bạn đã nghiên cứu.
+ Sau đó, trình bày các phương pháp và quy trình bạn đã sử dụng để thu thập dữ liệu và phân tích kết quả. Bạn cũng nên đưa ra những kết luận và đề xuất cụ thể để giải quyết vấn đề xã hội đó.
- Lưu ý khi trình bày báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội: tóm tắt ngắn gọn các nội dung chủ yếu của bản báo cáo, bao gồm cả phần thảo luận và gợi ý cho người nghe. Có slide trình chiếu hoặc poster minh họa nếu thấy cần thiết để người nghe dễ theo dõi, hình dung.
- Lưu ý khi viết báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội:
+ Xác định rõ đối tượng nghiên cứu, mục đích, phạm vi điều tra;
+ Xây dựng kế hoạch tiến độ, phương án khảo sát để bảo đảm tính chính xác, khoa học, khách quan của số liệu;
+ Sử dụng nhiều nguồn thông tin khác nhau như cơ sở dữ liệu trực tuyến, sách báo, kỉ yếu hội thảo… để đảm bảo độ tin cậy và hợp lệ của dữ liệu được sử dụng;
+ Báo cáo cần chú trọng giải thích kết quả điều tra, kiến nghị các giải pháp nhằm khắc phục hạn chế đã nêu tại Báo cáo.
- Lưu ý khi trình bày báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội:
+ Khi trình bày phải tóm tắt ngắn gọn các nội dung chủ yếu của bản báo cáo, bao gồm cả phần thảo luận và gợi ý cho người nghe. Có slide trình chiếu hoặc poster minh họa nếu thấy cần thiết để người nghe dễ theo dõi, hình dung.
Câu 5
Trả lời Câu hỏi 5 trang 57 SGK Văn 12 Chân trời sáng tạo
Thực hiện dự án nghiên cứu về một vấn để xã hội được đặt ra từ tác phẩm văn học và viết báo cáo kết quả.
Phương pháp giải:
Nhớ lại kiến thức đã học để trả lời câu hỏi
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Đề tài: Sau khi đọc và tìm hiểu về đoạn trích Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời và những hiểu biết của mình về thể loại sử thi, viết báo cáo nghiên cứu về hình thức biểu diễn sử thi trong đời sống những người dân Ê đê hiện nay.
1. Đặt vấn đề
Sử thi Ê đê ra đời trong điều kiện xã hội loài người có những biến động lớn về những cuộc di cư lịch sử, đặc biệt là những cuộc chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc để giành đất sống ở vùng rừng núi Tây Nguyên.
2. Giải quyết vấn đề
a) Khái quát về đồng bào Ê đê và sử thi Ê đê.
Đồng bào dân tộc Ê đê xếp thứ 12 trong cộng đồng 54 dân tộc anh em tại Việt Nam. Ước tính có hơn 331.000 người Ê đê cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Đắk Lắk, phía Nam của tỉnh Gia Lai và miền Tây của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên của Việt Nam. Người Êđê gọi sử thi là klei khan. Klei nghĩa là lời, bài; khan nghĩa là hát kể. Hát kể klei khan không phải là hát kể thông thường mà bao gồm ý nghĩa ngợi ca. Thực chất đây là một hình thức kể chuyện tổng hợp được thông qua hát kể.
Các tác phẩm sử thi đều phản ánh quan niệm về vũ trụ với thế giới thần linh có ba tầng rõ rệt: tầng trời, tầng mặt đất và tầng dưới mặt đất - thế giới mà con người và thần linh gần gũi với nhau; phản ánh xã hội cổ đại của người Ê đê, cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng bình đẳng, giàu có; phản ánh quyền lực gia đình mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ trong quản lý và bảo vệ hạnh phúc gia đình.
3. Hình thức hát kể sử thi
Hát kể sử thi là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có từ lâu đời của cộng đồng người Ê đê, được tồn tại bằng hình thức truyền miệng từ đời này qua đời khác.Nội dung của hát kể sử thi chủ yếu ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những người có công tạo lập buôn làng, những người anh hùng có công bảo vệ cộng đồng thoát khỏi sự diệt vong, áp bức và sự xâm chiếm của các thế lực khác; đề cao sự sáng tạo, mưu trí tài giỏi, tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn, nêu cao chính nghĩa, phản kháng những điều trái với đạo lý, luật tục; ca ngợi cái đẹp về sức mạnh hình thể lẫn tâm hồn, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, mong muốn chinh phục thiên nhiên để cuộc sống tốt đẹp hơn; miêu tả cuộc sống sinh hoạt, lao động bình thường giản dị của buôn làng…
Ngôn ngữ hát kể của sử thi Êđê là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời và nhạc. Về phần lời, sử thi Ê đê đều thể hiện một hình thức ngôn ngữ đặc biệt là lời nói vần (klei duê). Trong khi diễn xướng người nghệ nhân còn vận dụng các làn điệu dân ca của dân tộc mình, như: Ay ray, kưưt, mmuin… để tạo nên nhịp điệu vừa có chất thơ vừa có chất nhạc. Trong hình thức ngôn ngữ đó, các câu chữ như một móc xích nối các câu vần với nhau. Chính đây cũng là một yếu tố quan trọng khiến nghệ nhân có thể thuộc được cả những tác phẩm dài hàng vạn câu.
Trong sử thi thường nhắc nhiều về những cánh rừng bạt ngàn, rõ nét nhất là cảnh buôn làng giàu có của các tù trưởng, những người hùng nổi tiếng khắp vùng như Đăm Săn, Khing Ju… Trong trí tưởng tượng của người kể, những cánh rừng đi săn bắn, nơi làm rẫy và bến nước đều ở hướng đông. Đây là hướng mỗi buổi sáng thức dậy và đi lên rẫy đều nhìn thấy mặt trời ló trên đỉnh núi, họ quan niệm đây là sự sống, sự sinh sôi, nẩy nở khi tiếp nhận ánh sáng của nữ thần mặt trời mỗi ngày. Ánh mặt trời là sự báo ứng của những điều tốt lành, là sự hy vọng trở thành hiện thực.
Ví dụ như trong sử thi Khing Ju có đoạn kể: “Đến sáng hôm sau, khi mặt trời lên khỏi ngọn núi, Prong Mưng Dăng lấy nước trong bầu rửa mặt. Sau đó, vít cần rượu và tiếp tục uống. Càng uống nước trong ché càng đầy, có lúc nước tràn ra ngoài”. Đây là điều tốt lành báo ứng cho Prong Mưng Dăng dắt bà đỡ đẻ về gấp cho em gái mình H’Ling kịp sinh con, trong khi Prong Mưng Dăng đang mải mê tỏ tình với H’Bia Ling Pang.
4. Ảnh hưởng của sử thi đối với dân tộc Ê đê.
Với bất cứ sử thi nào, khi một nhân vật đi tìm ai và hỏi người nào đó trong làng thì sẽ có câu trả lời khéo léo. Đó là: “Nhìn cột nhà sàn nó dài hơn nhà khác, có nhiều cái bành voi để ngoài hiên, cầu thang rộng bằng trải ba chiếc chiếu. Cầu thang rộng đến nỗi những chàng trai xuống một lúc năm, các cô gái thì xuống được ba người, con heo, con chó chạy đầy dưới sân”. Câu trả lời này làm cho người nghe tưởng tượng về ngôi nhà đó đẹp, dài, rộng hơn hẳn những ngôi nhà trong buôn mình. Riêng nội thất trong nhà, người kể luôn tạo ra những lời kể bằng ngôn từ tượng hình. Ví dụ: “Cột nhà trong chạm trổ rất đẹp, sàn nhà láng bóng. Gian trong cột bằng chỉ đỏ, gian ngoài cột bằng chỉ vàng”. Những hình ảnh gần như có thực với không gian hiện thực.
Ví dụ: “Từ trong bành voi, Mtao Grư đạp lên đầu voi nhảy xuống sàn hiên, từ sàn hiên nhảy qua ngạch cửa, từ ghế Jhưng (ghế chủ nhà), nhảy đến chỗ ngồi đánh Jhar (chiêng lớn tiếng ngân vang), từ chỗ đánh Jhar đến chỗ đánh chiêng (ghế kpan), từ chỗ đánh chiêng nhảy đến chỗ đánh hgơr (trống cái)”. Hình ảnh này làm người nghe hình dung ra những hành động nhẹ nhàng, nhanh nhẹn của Mtao Grư đi vào qua các vị trí đặt chiêng, chỗ để của những vật dụng (như jhưng, kpan, thứ tự từ gian ngoài đi vào gian trong). Qua tình tiết của câu chuyện, người nghe đã hình dung đây là một nhà giàu có nhất trong buôn làng
Tại không gian lễ hội bỏ mả của người Êđê M’Dhur, về khuya, sau khi mọi nghi lễ tạm dừng lại, thì nghệ nhân kể khan bắt đầu kể những bài khan nổi tiếng của dân tộc mình cho mọi người nghe. Đây là hình thức sinh hoạt kể sử thi vô cùng độc đáo. Bên đống lửa bập bùng tại không gian nhà mồ rộng lớn, nghệ nhân hát kể sử thi cho hàng nghìn người nghe. Dân làng, già trẻ gái trai và khách gần xa ngồi im lặng say sưa lắng nghe kể sử thi suốt đêm thâu cho đến khi con gà trống gáy vang núi rừng, báo hiệu ông mặt trời đã thức giấc thì nghệ nhân hát kể sử thi mới dừng câu chuyện lại để chuẩn bị cho các nghi lễ tiếp theo của lễ hội bỏ mả. Ở đây, lễ hội bỏ mả được tổ chức bao nhiêu ngày đêm, thì những người đến dự lễ được nghe kể sử thi bấy nhiêu đêm.
5. Kết luận.
Sử thi Ê đê, chính là một bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân và về những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho cộng đồng. Người dân Ê đê hát kể sử thi như một cách để bảo tồn và gìn giữ giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc đồng thời tuyên truyền nét đẹp này đến với nhiều đồng bào dân tộc khác.
6. Tài liệu tham khảo
GS.TS Nguyễn Xuân Kinh, Quá trình sưu tầm và nhận thức lí luận đối với sử thi ở Việt Nam, Viện nghiên cứu văn hoá.
Khan (sử thi) của người Ê Đê, Cục Di sản văn hoá.
Hoàng Hưng (2021), Ý nghĩa tích cực trong đời sống tâm linh của đồng bào dân tộc Êđê, Văn hóa Việt Nam.
Quá trình hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam. Trước sự tác động của kinh tế thị trường, của hội nhập quốc tế sâu rộng và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa dân tộc đang dần bị mai một, pha trộn, lai căng không còn giữ được bản sắc. Do vậy, việc khẳng định giá trị văn hóa của các dân tộc là vấn đề cấp bách.
I. Một số vấn đề về bản sắc văn hóa dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc Mường
II. Thực trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở Hòa Bình hiện nay
Hòa Bình đã tổ chức những công tác hữu hiệu trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở Hòa Bình như Công tác xây dựng đời sống văn hóa; Tổ chức tốt các cuộc vận động xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Thôn, bản, khối văn hóa”, “Cơ quan văn hóa”; Công tác tổ chức các hoạt động văn hóa, giao lưu văn hóa.
Kết quả đạt được trong năm 2013 có 1400/1364 làng bản đạt tiêu chuẩn văn hóa, đạt 102,6%; 155000/146838 gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa đạt 105,05%; 570/548 cơ quan đơn vị đạt tiêu chuẩn văn hóa đạt 104%.
III. Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở nước ta
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là giữ gìn tất cả những mặt tích cực trong bản sắc văn hóa dân tộc; khắc phục, loại bỏ những hủ tục; phát huy những yếu tố tích cực, tốt đẹp. Vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trong đó có dân tộc Mường là một việc vô cùng quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Đối với dân tộc Mường nói riêng, việc giữ gìn bản sắc văn hóa nhằm củng cố và phát triển ý thức dân tộc, nâng cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc; góp phần tạo nền tảng cho hội nhập hợp tác phát triển bền vững; thực hiện tốt mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
IV. Kết luận
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi nhiều giải pháp tích cực, liên quan đến đời sống văn hóa của nhân dân và dân tộc. Trong đó, vai trò của nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ người Mường hãy tiếp nối, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2001), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.13.
2. Vương Anh (2003), Tiếp cận với văn hóa bản Mường, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
3. Huy Cận (1994), Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Soạn bài Nói và nghe: Trình bày báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội SGK Ngữ văn 12 tập 2 Chân trời sáng tạo
- Soạn bài Viết báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội SGK Ngữ văn 12 tập 2 Chân trời sáng tạo
- Soạn bài Đọc mở rộng theo thể loại: Ngày 30 tết SGK Ngữ văn 12 tập 2 Chân trời sáng tạo
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 42 SGK Ngữ văn 12 tập 2 Chân trời sáng tạo
- Soạn bài Đọc kết nối chủ điểm: Áo dài đầu thế kỉ XX SGK Ngữ văn 12 tập 2 Chân trời sáng tạo
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 12 - Chân trời sáng tạo - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục
- Văn bản Dòng Mê Kông “giận dữ” (Theo Hoàng Nam, Thu Hằng, Hoàng Khánh, Thanh Hạ)
- Văn bản Đợi mưa trên đảo sinh tồn (Trần Đăng Khoa)
- Văn bản Sự ô nhiễm nguồn nước trên bề mặt trái đất và hậu quả (Theo Rây – cheo Ca – son (Rachel Carson)
- Văn bản Khuôn đúc đồng Cổ Loa: “Nỏ thần” không chỉ là truyền thuyết (Theo Hà Trang)
- Văn bản Cảnh rừng Việt Bắc (Hồ Chí Minh)
- Văn bản Dòng Mê Kông “giận dữ” (Theo Hoàng Nam, Thu Hằng, Hoàng Khánh, Thanh Hạ)
- Văn bản Đợi mưa trên đảo sinh tồn (Trần Đăng Khoa)
- Văn bản Sự ô nhiễm nguồn nước trên bề mặt trái đất và hậu quả (Theo Rây – cheo Ca – son (Rachel Carson)
- Văn bản Khuôn đúc đồng Cổ Loa: “Nỏ thần” không chỉ là truyền thuyết (Theo Hà Trang)
- Văn bản Cảnh rừng Việt Bắc (Hồ Chí Minh)