Bêkênit Xpinôza (1632 - 1677)


Bêkênít Xpinôza là nhà triết học lỗi lạc người Hà Lan. Ông sinh năm 1632 trong một gia đình thương gia ở Amxtécđam (Hà Lan). Theo học tại một trường trung cấp tôn giáo châu Âu ở Amxtécđam, sau đó ông phải bỏ học, giúp bố làm nghề buôn bán

Bêkênít Xpinôza là nhà triết học lỗi lạc người Hà Lan. Ông sinh năm 1632 trong một gia đình thương gia ở Amxtécđam (Hà Lan). Theo học tại một trường trung cấp tôn giáo châu Âu ở Amxtécđam, sau đó ông phải bỏ học, giúp bố làm nghề buôn bán. Sau khi bố mất một thời gian, ông bỏ nghề luôn, say mê nghiên cứu những vấn đề triết học, và khoa học tự nhiên, nhất là hình học ơclít. Ông mất năm 1677, để lại tác phẩm nổi tiếng vài tiêu đề Đạo đức học (1675) và nhiều tác phẩm khác.

Trong triết học của mình, Xpinôza đặc biệt chịu ảnh hưởng của triết học Đềcáctơ, tự coi mình là sự kế tục và phát triển những khuynh hướng duy vật của nhà triết học vĩ đại Pháp. Ngoài ra, đặc biệt đề cao vai trò của nhà hình học cổ đại ơclit. Xpinôza “vẫn tự xưng là ơclít trong triết học. Về nội dung thì Đạo đức học hoàn toàn là một tác phẩm triết học. Nhưng nó được viết dưới ngôn ngữ hình học. Đối với ông mục đích cuối cũng của triết học là vì con người, mà siêu hình học của ông - tức học thuyết vế thực thể là cơ sở lý luận để làm điều đó.

a, Quan niệm về giới tự nhiên như một thực thể, các thuộc tính và dạng thức của nó

Khác với Đềcáctơ, Xpinôza không xuất phát từ con người để giải thích thế giới, mà ngược lại, đi từ thế giới đế giái thich con người. Do vậy, nhà triết học Hà Lan coi cơ sở và nền tảng thế giới quan của mình là học thuyết về giới tự nhiên như một thực thẻ duy nhất, tồn tại như là causa sui (nguyên nhân tự nó). Cũng như Đềcáctơ ông hiểu thực thể là một thế giới hoàn toàn độc lập, có thể tự tồn tại và phát triển được. Nhưng khác với nhà triết học Pháp, Xpinôza không coi thực thể là do Thượng đế sinh ra, mà trái lại coi thượng đế chính là thực thể giới tự nhiên. Bán thân Thượng đế chính là toàn bộ giới tự nhiên, chứ không phải đứng trên thế giới tự nhiên như một lực lựơng siêu nhiên thần bí nào khác. Giới tự nhiên là một chỉnh thể thống nhất tồn tại hoàn toàn độc lập và vĩnh viễn. Khẳng định giới tự nhiên tồn tại như Causasui nghĩa là khẳng định giới tự nhiên như một thực thể hoàn toàn độc lập, tự nó sinh ra, do vậy để lý giải giới tự nhiên phải xuất phát từ chính bản thân nó.

Theo Xpinôza, giới tự nhiên như một thực thể có những đặc tính sau:

Thứ nhất, nó đang tồn tại trọn vẹn và đầy đủ. Điều này xuất phát từ chính bản thân khách quan của thực thể giới tự nhiên. Nếu như ai đó “lại còn nghi ngờ vào sự tồn tại của thực thể, thì chẳng khác gì anh ta nói rằng mình có một ý niệm đúng đắn, những vẫn nghi ngờ liệu nó có giả dối không”.

Thứ hai, thực thể tồn tại hoàn toàn độc lập. Ngoài toàn bộ giới tự nhiên được hiểu như một thực thể duy nhất ra, thì trên thế gian này không còn một cái gì khác. Mọi sự vật đều chỉ là các dạng biểu hiện khác nhau của một thực thể. Thực thể là nguồn gốc chung, là cơ sở và nền tảng, đồng thời cũng là bản chất chung của mọi sự vật, kể cả vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy, mối quan hệ hữu cơ giữa thực thể với các dạng biểu hiện cụ thể của nó (tức các sự vật) là mối quan hệ hữu cơ giữa tính thống nhất và tính nhiều vẻ của giới tự nhiên.

Nhờ hai tính chất trên đây, “thực thể trở thực thành thực tại tại tối cao, trong đó bản chất thực thể bao hàm sự tồn tại của nó”, trong khi các sự vật thì không có đặc tính như vậy, điều đó đúng theo một khía cạnh nhất định, bởi vì các sự vật chỉ là những biểu hiện đặc thù của thực thể. Nhưng Xpinôza lại đẩy tư tưởng trên đi đến cực đoan, đi đến chỗ tư tưởng tách rời thực thể với các dạng thức của nó, cho rằng chỉ có thực thể là natura naturans (thế giới sản sinh ra), còn các sự vật đều chỉ thuộc về natura naturata (thế giới được sinh ra). Trong đó, thực thể tồn tại trước các sự vật. Điều này đưa Xpinôza đi đến chỗ thực thể thần bí trong việc lý giải bản chất thực thể .

Thứ ba, thực thể là vô cùng tận về không gian và vĩnh hằng về thời gian. Từ sự tách rời thực thể với các sự vật, cũng như từ lập luận của ông coi phạm trù không gian và thời gian chỉ thích ứng với các sự vật hữu hạn và nhất thời, Xpinôza đã khẳng định thực thể là một cái “siêu không gian" và “siêu thời gian". Từ đây, ông coi thực thể là không thể phân chia được, bởi vì nếu như thế thì nó đã trở thành các sự vật, chứ không còn là thực thể nữa. Kết quả là ngay bản thân vận động cũng chỉ được coi là đặc tính của các sự vật chứ không phải là đặc tính của thực thể.

Như vậy, ở Xpinôza các cặp phạm trù vận động – đứng yên, thống nhất tư tưởng - đa dạng, V.V.. trở thành những cực đối lập một cách tuyệt đối. Kết quả này dẫn ông đến mâu thuẫn : một mặt, ông coi thực thể gắn liền với sự tư tồn tại cụ thể của nó; mặt khác, ông lại kết luận “thực thể, về bản chất có trước các trạng thái của nó (tức là hình thái tồn tại) của mình".

Nếu như ở Đềcáctơ, tính chất cơ bản của nó, chẳng hạn, coi tính chất cơ bản của các vật thể là quảng tính, Đềcáctơ gọi chúng

là thực thể thì Xpinôza dù sao vẫn phân biệt chúng, biến hai thực thể của Đềcáctơ thành hai thuộc tính của mặt thực thể theo quan niệm riêng của mình. Các thuộc tính được hiểu như những tính chất cố hữu, mà thông qua đó thực thể được biểu hiện ra, tựa như không gian phải thể hiện ra thành các chiều của mình vậy. Bản thân thực thể bao hàm tổng thể các thuộc tính của nó. Các thuộc tính cũng tồn tại vĩnh viễn như chính bản thân thực thể, mặc dù nó thuộc về “thế giới sản sinh ra”.

Thừa nhận tồn tại vô vàn các thuộc tính của thực thể, nhưng Xpinôza khẳng định con người chỉ biết được duy nhất hai thuộc tính trong số chúng - đó là tư duy và quảng tính. Tại sao như vậy, thì bản thân ông cũng không giải thich nổi, chỉ hiểu một cách mơ hồ rằng, phải chăng Arixtốt đã đúng khi cho là “cái vô hạn và bởi vì nó là cái vô hạn, cho nên nó không thể được nhận thức” .

Khẳng định tư duy vả quảng tính là hai thuộc tính của cùng một thực thể, nhã triết học Hà Lan coi đó là cách tốt nhất nhãmg khắc phục nhị nguyên luận trong siêu hình học của Đểcáctơ theo hưởng duy vật. Tư duv và quảng tính được coi là hai hình thức thê hiện của cùng một thực thể được đồng nhất với toàn bộ giới tự nhiên và Thượng dè. Mồi thuộc tính thể hiện toàn bộ thực thể dưới góc độ rủa mình. Chúng chỉ là bản thân thực thế biếu hiện dưới dạng các sự vật quàng tính, hoặc là dưới dạng các tư tưởng, ý niệm .V .V. Cũng như Đềcáctơ, Xpinôza đồng nhất vật chất với quảng tính, hiểu “giới tự nhiên không chỉ là vật chất mà thôi, vì vật chất chỉ là một trạng thái của thực thể, và ngoài vật chất ra thì còn cái gì đó vô tận khác. Vật chất không phải là nguồn gốc duy nhất của mọi sự vật mà chỉ là một trong nhiều thuộc tính cuả giới tự nhiên. Đây là điểm Xpinôza khác vời nhiều nhà duy vật khác cùng thời trong quan niệm về thế giới.

Thuộc tính thứ hai của thực thể là tư duy. Đây chính là toàn bộ thực thể được biểu hiện dưới các hình thức tư tưởng, ý niệm. Ở đây Xpinôza phân biệt 2 loại tư duy: a) tư duy với tư cách là thuộc tính của thực thể là tư duy vô hạn, tồn tại vĩnh viễn cùng thực thể. Từ góc độ này, Xpinôza ví toàn bộ giời tự nhiên tựa như một lý tính vô hạn, trong khi đó dưới góc độ quảng tính thì giới tự nhiên thể hiện như một thế giới vật chất. Tuy nhiên tư đuy cũng là một thuộc tính của thực thể, cho nên không đồng nhất với Thượng đế. Tư duy chính là thuộc tính nhờ đó giới tự nhiên “nhận thức” chính bản thân mình. Vì vậy không chỉ con ngừơi, mà mọi vật đều có “tư duy”. Nếu như thuộc tính vật chất thể hiện sự phát triển của mọi sự vật về cấu trúc vật chất, thì thuộc tính tư duy thể hiện chúng về phương diện phát triển khả năng “mặc dù ở cấp độ khác nhau, nhưng không chỉ có con người, mà mọi sự vật khác đều có sinh khí”. Tuy vậy, Xpinôza luôn nhấn mạnh đến sự khác nhau về chất giữa tư duy con người và tư duy” các loài vật; b)Tư duy con người là biểu hiện bậc cao của dạng tư duy trên, do vậy hữu hạn và có thể bị huỷ diệt khi con người chết. Nó khác với “tư duy" của các loài vật không chỉ bởi cấp độ phát triển mà còn bởi chỉ riêng con người có ý thức.

Giữa các thuộc tính của thực thế, đồng thời giữa chúng với các sự vật có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó không chỉ được thể hiện ở chỗ tư duy và quảng tính chỉ là hai “cách đo“, hai hình thức cũng thể hiện một nội dung, đó là toàn bộ giới tự nhiên như một thực thể, mà còn ở chổ trong mỗi sự vật đều thể hiện toàn bộ các thuộc tính của thực thể. Cũng như mỗi thuộc tính của thực thể đều biểu hiện ra ở mọi sự vật. Nhưng nếu như các thuộc tính của thực thể đều tồn tại vĩnh hằng, thì ngược lại mọi sự vật đều biến đổi không ngừng, sinh ra, chết đi ,V.V. Nhà triết học Hà Lan đưa ra luận điểm sâu sắc khẳng định “cái hữu hạn là cái phủ định" ý nói mỗi sự vật vừa tồn tại, đồng thòi lại chứa đựng sự suy vong tất yếu của nó.

Vấn đề bây giờ là phải xác định thực thể biểu hiện ra dưới dạng các sự vật như thế nào, đây cũng chính là xác định cơ chế các sự vật được sinh ra từ thực thể duy nhất của chúng ta như thế nào. Đây là một vấn đề khó mà phài giải quyết, bởi vì như trên đã thấy, giữa thực thể và các dạng thức của nó có nhiều đặc tình hoàn toàn đối lập nhau. Để giải quyết vấn đề trên, phải tìm ra “khâu trung gian" giữa thực thế và các sự vật.

Và Xpinôza đã tìm ra “khâu trung gian" đó. Đây là các dạng thức vô hạn (tức tổng thêr các sự vật chất, hay tổng thể các tư tưởng, ý niệm V. V.) đóng vai trò “cái cầu" gắn liền giữa thực thi và các sự vật. Nhưng do không thoát khỏi ảnh hưởng của các quan niệm siêu hình thống trị thời đó, nhà triết học Hà Lan không thể từ bỏ được quan niệm coi thực thể là cái có trước các sự vật. Rốt cục vẫn tách rời thực thể với các sự vật tự nhiên . “Sai lầm của Xpinôza là ở chỗ, Hêghen nhận xét, ông hiểu các sự vật chỉ là các dạng thức, là cái đơn nhất ngu xuẩn. Cái đơn nhất thụ sự không chỉ là cái khác chung nhất ... (theo cách hiểu của Xpinôza thì đó là thực thể - TG), cái đơn nhất đồng thời là có hướng về cái chung nhất ...và chính nó là cái chung nhất . Nhìn chung, Xpinôza chỉ đặt vấn đề cần phải hiểu giới tự nhiên như một chỉnh thể hữu cơ và sống động. Nhưng do ảnh hưởng của phương pháp tư duy siêu hình thống trị thế kỷ XVII, ông chưa thực hiện tư tưởng trên đến cùng. Do đó, “mặc dù học thuyết về sự thống nhất thực thể là cơ sở cho mọi sự phát triển đúng đắn sau này, tuy nhiên không nên dừng lại ở đó”.

Mặc dù là chưa đạt đến quan niệm coi giới tự nhiên như một chủ thể sống động, nhưng học thuyết của Xpinôzo về thực thể đã khác phục nhị nguyên luận của Đềcáctơ trong việc lý giải mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất. Khẳng định lập trường nhất nguyên về thế giới, quan niệm trên đây của Xpinôza tỏ rõ ưu thế hơn hẳn các quan niệm duy danh về các sự vật. Ông đã tìm cách giải thích thế giới từ chính bản thân nó, và điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các quan niệm duy vật sau này.

b, Nhân bản học và nhận thức học.

Xuất phát từ học thuyết về thực thể, Xpinôza đi đến xây dựng quan niệm con ngưòi. Đối với ông, đây chính là mục đích cuối cùng của triết học. Vì nhiệm vụ chính của triết học là phục vụ cuộc sống của con người, giúp con người có học thức, làm chủ thiên nhiên, sống theo những lý tưởng đạo đức cao đẹp.

Trong quan niệm của Xpinôza, con người không là cái gì khác, mà chính là dạng thức của thực thể, là sản phẩm của tự nhiên. Vì thế mọi hoại động của nó phải tuân theo các quy luật của tự nhiên. Là một dạng thức của thực thể, con người không thể không thể hiện các thuộc tính tư duy quảng tính. Trong con người, điều đó được thể hiện dưới dạng linh hồn và thể xác. Cũng như hai thuộc tính trên chỉ là hai hình thức thể hiện cùng một thực thể, thì thể xác và linh hồn cũng chỉ là "hai cách đo”, hai cách thể hiện của một nội dung, đó là con người đang suy nghĩ như một thể thống nhất. Vì thế mọi quan niệm duy tâm tách rời linh hồn với thể xác, coi linh hồn có nguồn gốc siêu nhiên đều chỉ là giả dối. Dưới con mắt của Xpinôza thể xác con người mà không có khả năng suy nghĩ thì không còn là nó nữa, mà chỉ là một vật vô dụng, ngược lại linh hồn chỉ là chức năng hoạt động của thể xác con người. Mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn là mối quan hệ hữu cơ giữa khả năng và cấu trúc. Vì vậy chúng không thể tách rời nhau. Vì vậy, không phải một thế lực siêu nhân nào khác, mà chính con người làm chủ quá trình tư duy của mình. Xpinôza quả quyết “Cơ thể không thể bắt linh hồn phải suy nghĩ, cũng như tư duy không thể buộc thể xác vận động hay đứng yên, hoặc làm một việc gì khác”, vì chúng là một thể thống nhất trong con người.

Nhân bản học Xpinôza là sự phát triển khuynh hướng duy vật trong quan niệm về con người của Đềcáctơ coi cơ thể con người là khí quản của tinh thần. Và để làm được điều đó, thì cơ thể con người phải có cấu trúc vật chất phức tạp nhất định. Vì thế, nếu như Đềcáctơ coi con người như một cái “máy - hệ thống” thì Xpinôza hiểu con người như một dạng thức phức tạp của thực thể. Và một khi con người chỉ là một dạng thức của thực thể, thì nó cũng như mọi vật khác đều nằm trong quá trình phát triển và diệt vong. Nhưng với tư cách là sự thể hiện đặc tính nhận thức mình của Thượng đế, thì “trong Thượng đế cần phải tồn tại một ý niệm bản chất của một cơ thể con người nào đó dưới hình thái vĩnh hằng, bởi vì tư duy con người là sự thể hiện bước phát triển cao của tư duy với tư cách là thuộc tính của thực thể.

Ở đây, tuy dưới một hình thức có vẻ hơi thần bí, nhưng Xpinôza đã đặt ra một vấn đề rất sâu sắc, mà sau này Ph.Ăngghen khái quát thành tư tưởng bảo toàn vận động của giới tự nhiên không chỉ về phương diện lượng, mà còn cả về phương diện chất nữa. Con người là sự thể hiện thuộc tính của giới tự nhiên tự nhận thức, ý thức chính bản thân mình. Và thế, đến một lúc nào đó vật chất “phải huỷ diệt mất đoá hoa rực rỡ nhất của nó ở trên trái đất, tức là cái tinh thần đang tư duy, thì nó lại phải - cùng với một tính tất yếu sắt thép như thế - tái sinh ra cái tinh thần ấy ở một nơi nào khác và trong một thời gian nào khác”.

Phát triển những quan niệm trên đây về con người Xpinôza cho rằng bản tính của con người là nhận thức. Nhu cầu nhận thức chính là khát vọng lớn nhất của con người muốn “thể hiện tình yêu trí tuệ của mình tới Thượng đế”. Chỉ có nhờ quá trình nhận thức thì con người mới khám phá ra được những quy luật của tự nhiên, tuân theo chúng. Cường điệu tinh thần phát triển khoa học như vũ bão thời kỳ đó, Xpinôza coi quá trình nhận thức là chiếc chìa khoá giúp cho con người giải quyết được mọi tệ nạn xã hội, giải phóng họ khỏi mọi bất công và áp bức. Mọi tệ nạn xã hội đều sinh ra từ sự dốt nát của con người. Con người có khả năng tự giải thoát mình nhờ quá trình nhận thức thế giới.

Luận điểm cơ bản trong nhận thức luận của Xpinôza là “giới tự nhiên mãi mãi và khắp nơi đều như nhau và do vậy cách thức nhận biết sự vật như chúng có cũng đều như nhau cả”. Đề cao vai trò của kinh nghiêm trong nhận thức, ông nói, “kinh nghiệm dạy chúng ta rất xác thực”. Nhận thức cảm tính cho phép chúng ta cảm thụ được tính sinh động và đa dạng của sự vật. Tuy nhiên, nó chỉ cho phép ta hiểu biết về các sự vật đơn nhất. Cũng như Đềcáctơ, nhà triêt học Hà Lan đặc biệt đánh giá cao vị trí của trực giác lý tính giúp chúng ta nhận thức được bản chất đích thực của thực thể. Là một nhà duy lý coi trong vai trò của trí tuệ con ngưoừi, nhưng Xpinôza lại không thừa nhận tồn tại các tư tưởng bẩm sinh. Cũng như Đềcáctơ ông coi trực giác lý tính (tức khả năng trí tuệ cao nhất của con người) là khả năng vừa khám phá ra chân lý lại đồng thời là tiêu chuẩn của chân lý.

Coi quá trình nhận thức là con đường giúp con người ngày càng khám phá và tuân theo các quy luật của tự nhiên, đồng thời ngày càng đi tới tự do, Xpinôza, khác với Đềcáctơ, không thừa nhận tự do ý trí của con người. Vì thế những sai lầm của con người đều nảy sinh không phải từ tự do ý chí, mà từ các xúc cảm của con người. Mọi quá trình nhận thức đều diễn ra trong một thể trạng cụ thể của con người. Những xúc cảm tích cực như vui sướng, tình yêu, v.v. thì thức đẩy hoạt động của con người, còn các xúc cảm buồn chán, căm thù.v.v. thì ngược lại, kìm hãm, cản trở con người nhận thức thế giới.

Vì vậy, phải tăng cường kích thích gây các xúc cảm tích cực trong con người, thúc đẩy quá trình nhận thức của con người đi đến tự do. Để làm điều đó, cuộc sống của con người cần phải có niềm tin. Nhưng con người nên tin vào các quy luật của tự nhiên, những cái hiện thực chứ không phải những điều hư ảo mà tôn giáo đem lại.

Loigiaihay.com


Bình chọn:
3.7 trên 3 phiếu
  • Gophrít Vinhem Lépnít (1646 - 1716)

    Gophrít Vinhem Lépnít (Gofrit Wilhem Leibniz) là nhà triết học, nhà toán học, vật lý học lỗi lạc người Đức, người có nhiều đóng góp quan trọng đối với sự phát triển triết học và khoa học phương Tây cận đại

  • Rêne Đềcáctơ (1596 - 1650)

    Rêne Đềcáctơ (Rene Descartes) là nhà triết học, nhà bách khoa toàn thư vĩ đại người Pháp. Có thể nói, cùng với Bêcơn, “Đềcáctơ đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học" Tây Âu cận đại

  • Lý thuyết: Siêu hình học thế kỷ XVII

    Thông thường khi nói đến danh từ "siêu hình" (metaphisica) chúng ta quen ám chỉ một cách thức tư duy phiến diện, cứng đờ, phản biện chứng về các sự vật. Nhưng ngoài ra, nó còn thể hiện khía cạnh bản thể luận nữa