Phân tích khổ thơ thứ ba bài Tràng giang>
1. Mở bài - Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng giang - Dẫn dắt vào vấn đề: khổ thơ thứ ba trong bài Tràng giang
Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 11 tất cả các môn - Kết nối tri thức
Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng giang
- Dẫn dắt vào vấn đề: khổ thơ thứ ba trong bài Tràng giang
II. Thân bài
a. Khái quát chung
- Với nhan đề, nhà thơ đã khéo gợi lên một vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại:
+ “Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.
+ Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm. Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường giang”, hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.
+ Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc. Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi. Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp.
→ Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng trước cảnh sông nước bao la trong một buổi chiều đầy tâm sự.
b. Phân tích khổ thơ thứ 3 trong bài Tràng giang
- “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: phải chăng hình ảnh thơ ngoài ý nghĩa tả thực còn có ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng: Nhà thơ đang sống trong cảnh mất nước, nô lệ, nên đã cảm nhận được cả thế hệ thanh niên lúc đó cũng như mình đang vật vờ, lênh đênh, trôi dạt, bị cuộc đời cuốn đi mà không biết trôi về đâu?
- Câu 2, 3: Cảnh mênh mông, buồn bã, trống vắng quạnh hiu của “Tràng giang” càng được nhân lên bằng mấy lần phủ định: “Không đò… không cầu...”. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ là biểu hiện của sự giao nối của con người và cuộc sống, thường gợi về cuộc sống tấp nập, gần gũi và gợi nhớ quê hương. Nhưng ở đây, tất cả bị phủ định: không một cái gì đó gợi về tình người, lòng người muốn gặp gỡ lại qua nơi đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chạy dài vô tận như hai thế giới cô đơn, không chút “niềm thân mật” của những tâm hồn đồng điệu.
- Câu 4: Cảnh “tràng giang” chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Câu thơ đã vẽ lên được một bức tranh thật đẹp, tĩnh lặng nhưng rất buồn.
c. Tiểu kết
- Bốn câu thơ, bốn hình ảnh, tất cả đều gợi buồn. Chúng “cộng hưởng” với nhau tạo thành bức tranh gợi về số phận nổi trôi, bơ vơ, bất hạnh, cô đơn của kiếp người trong xã hội cũ.
- Nghệ thuật sử dụng thủ pháp quen thuộc của thơ cổ điển: lấy “không” để nói “có”.
III. Kết bài
- Nêu nhận xét, cảm nhận khái quát về khổ thơ thứ ba
- Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân
Bài tham khảo Mẫu 1
Huy Cận là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ mới. Giữa rừng hoa thơ mới, ông nổi bật với bút lực dồi dào và phong cách sáng tác đa dạng. Nếu sau cách mạng tháng Tám thơ ông sôi nổi, nhiệt huyết phù hợp với không khí đổi mới của thời đại thì trước cách mạng Huy Cận được biết đến là một hồn thơ u sầu, ảo não. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác trước cách mạng và cũng chính là cái "tôi" cô đơn, ảo não của Huy Cận trước thời cuộc. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ ba, nhà thơ đã bộc lộ rõ nét nỗi nhớ quê hương, tâm trạng cô đơn, khắc khoải trước không gian sông nước mênh mông, buồn vắng.
Tràng giang được Huy Cận sáng tác trong một buổi chiều mùa thu, khi tác giả đứng ở bến đò Chèm ngắm nhìn cảnh sông nước mênh mang. Và cũng có lẽ do được sáng tác trong một không gian đặc biệt như vậy nên nhà thơ cảm nhận thấm thía được sự nhỏ bé, đơn độc của mình giữa thời cuộc. Trong khổ thơ thứ ba của bài, từng câu thơ đều khắc khoải một nỗi buồn man mác:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Khổ thơ không chỉ tái hiện lại không gian buồn vắng của sông nước mênh mông mà còn gửi gắm vào đó những tâm sự, nỗi lòng của mình về cuộc đời, về con người, thời cuộc. Hình ảnh đám bèo dạt trong câu thơ "Bèo dạt về đâu hàng nối hàng" không chỉ là hình ảnh tả thực mà nhà thơ quan sát được khi đứng ở bến đò mà còn là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho chính nhà thơ, cho cả một thế hệ thanh niên yêu nước lúc bấy giờ. Đám bèo trôi dạt trên sông cũng giống như thế hệ thanh niên yêu nước đang lênh đênh, trôi dạt giữa thời cuộc. Họ đang phải sống trong cảnh nô lệ, không chấp nhận sự bất công của thời cuộc nhưng cũng không thể làm gì để đổi thay. Và những con người ấy rồi sẽ ra sao, thời cuộc sẽ cuốn trôi về đâu?
Đối mặt với sự cô đơn, bất lực, nhà thơ hướng sự chú ý vào khung cảnh xung quanh như để "níu kéo" một chút hi vọng dù nhỏ bé nhưng đành phải ôm lấy thất vọng:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật”
Cảnh vật xung quanh rộng lớn nhưng hoang vắng, quạnh quẽ, không có lấy một dấu hiệu của sự sống "không một chuyến đò ngang", không chút "niềm thân mật". Phải chăng khi con người buồn thì cảnh vật cũng thấm đượm tâm trạng con người như nhà thơ Nguyễn Du từng viết "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
Câu phủ định "không...không" càng tô đậm thêm khung cảnh vắng vẻ quạnh hiu nơi sông nước mênh mông. Chuyến đò ngang, chiếc cầu là những vật thường xuất hiện nơi sông nước, là phương tiện gắn kết con người với dòng sông, nó gợi ra nhịp sống tấp nập của con người. Thế nhưng ở đây, dù cố gắng tìm kiếm nhưng nhà thơ lại chẳng thể tìm thấy. Dòng sông dài rộng trở nên vắng vẻ, rợn ngợp, con người cô đơn và dòng sông hay cũng chính là cuộc đời rộng lớn ngoài kia như hai đối cực, không một chút "niềm thân mật".
Khổ thơ thứ ba khép lại với hình ảnh bờ xanh tiếp bãi vàng:
"Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng"
Ở câu thơ cuối, nhà thơ Huy Cận đã sử dụng những gam màu tươi sáng xanh, vàng để chấm phá cho bức tranh. Tưởng như những sắc màu này sẽ phần nào xua đi cảm giác đơn độc, u tối cho bức tranh thơ, thế nhưng từ láy "lặng lẽ" đầu câu lại làm cho dòng cảm xúc chưa kịp thăng hoa đã trầm xuống. Câu thơ làm cho cảnh sông nước càng trở nên đìu hiu, vắng lặng.
Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn trong khổ thơ thứ ba, nhà thơ Huy Cận đã dựng lên trước mắt người đọc bức tranh cảnh-tình thực sinh động nhưng cũng thật tâm trạng. Mỗi cảnh vật đều chan chứa cảm xúc, nỗi buồn của người thi sĩ, đây cũng chính là cái tài, cái tình của Huy Cận trong Tràng giang.
Bài tham khảo Mẫu 2
Trong phong trào thơ Mới, Huy Cận được xem là hồn thơ cổ điển nhất. Ông có nhiều sáng tác mang đậm nét cổ điển xen lẫn hiện đại tiêu biểu là Bài thơ Tràng Giang. Hai khổ thơ đầu bài thơ tác giả đã khắc hoạ thành công vẻ đẹp của thiên nhiên sông nước mang sắc màu trầm buồn man mác. Đến khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục lột tả vẻ đẹp trầm mặc của thiên nhiên cũng như bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình.
Trước khi đi vào phân tích khổ 3 bài thơ Tràng giang chúng ta phải nắm được hoàn cảnh ra đời của bài thơ. Nhà thơ Huy Cận từng chia sẻ: “Trước cách mạng, tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng đê Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc”. Đứng trước khung cảnh thiên nhiên mênh mông, bát ngát đó, nhà thơ đã gửi gắm nỗi niềm tâm sự sâu kín của mình vào bài thơ. Tiếp nối hai khổ thơ đầu thì khổ thơ thứ ba tiếp tục lột tả vẻ đẹp trầm buồn của thiên nhiên:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Lâu nay, hình ảnh cánh bèo trôi luôn gợi đến sự mong manh, lênh đênh vô định. Nó còn là hình ảnh gợi về sự rẻ rúm của thân phận con người. Tương phản với sự mênh mông của sông nước, ta thấy hình ảnh cánh bèo lại càng thêm nhỏ bé. Hàng bèo nối đuôi nhau chảy trôi theo dòng nước, không biết sẽ đi đâu và về đâu. Nó gợi liên tưởng đến kiếp người bé nhỏ, đang bơ vơ, lạc lõng giữa đời. Đặt vào hoàn cảnh nước mất nhà tan thì có lẽ đây chính là tình cảnh chung của thế hệ thanh niên đang lênh đênh, vật vờ như mất phương hướng.
Hai câu thơ tiếp theo khắc hoạ khung cảnh mênh mông của sông nước:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”
Sự hiu quạnh, vắng lặng của không gian dường như được nhân thêm nhiều lần bởi sự phủ định hai lần liên tiếp: “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”. Con đò ngang chỉ sự giao lưu, kết nối của con người hai bên bờ sông với nhau nhưng cả dòng nước mênh mông lại chẳng có chuyến đò ngang nào cả. Vậy chiếc cầu bắc qua sông thì sao? Không đò, không có cả cầu dù tác giả đã phóng tầm mắt nhìn ra xa cũng không thấy biểu hiện của sự giao nhau giữa hai bờ sông thông qua cây cầu. Có thế thấy đôi bờ đều là những nơi hoang vắng, ít người qua lại, hai bờ sông như bị chia cắt làm đôi kéo dài tới vô tận. Nó như hai thế giới song song, không gì có thể ảnh hưởng tới bên còn lại, không một chút “niềm thân mật” nào cả. Tất cả chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên chứ không có dấu hiệu của con người, của sự sống nào khác. Đứng trước tình cảnh ấy người thi sĩ giống như càng thấy buồn thương, thiếu vắng đi sức sống. Nhà thơ Huy Cận như cảm thấy bản thân là một thực thể sống duy nhất trơ trọi giữa thiên nhiên nên càng cảm thấy khao khát được gắn bó với con người, với quê hương như hai câu thơ trong bài Đảo:
“Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm”.
Có lẽ câu cuối khổ ba giống như một lời than thở của người thi sĩ trước khung cảnh thiên nhiên:
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Một vẻ đẹp tĩnh lặng, đượm buồn của thiên nhiên, sự tiếp nối của tự nhiên “bờ xanh” với “bãi vàng” hai tông màu tươi sáng nhưng lại kết hợp với từ “lặng lẽ” khiến nó không thể xua đi cái không khí trầm lắng, buồn man mác của dòng sông. Tất cả như lặng lẽ không có lấy một tiếng động nào cả. Đằng sau vẻ đẹp ấy chính là một tâm hồn trăn trở, đau đáu trước cảnh nước mất nhà tan, lo lắng cho tương lai của con người trong hiện tại và tương lai gần không biết trôi dạt về đâu.
Tóm lại, qua khổ 3 bài thơ Tràng giang ta, Huy Cận đã tái hiện khung cảnh trầm buồn, mênh mang của vùng sông nước rộng lớn. Đồng thời bày tỏ tâm trạng của mình khi đứng trước thiên nhiên và trong bối cảnh đất nước bị xâm lược. Dù thời gian trôi qua đã lâu nhưng bài thơ vẫn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả và được các thế hệ sau này đón nhận. Đó chính là thành công của người thi sĩ với đứa con tinh thần của mình.
Bài tham khảo Mẫu 3
Khác với hồn thơ hồ hởi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau Cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận những năm trước Cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà "Tràng giang" ra đời lại khắc họa nét cô đơn, bé nhỏ, bơ vơ của kiếp người trước không gian thiên nhiên "trời rộng sông dài" rợn ngợp. Và điều đó đã được Huy Cận thể hiện thành công trong khổ thơ thứ 3.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Ngay từ nhan đề bài thơ "Tràng giang", Huy Cận đã khéo léo khắc họa trước mắt người đọc một hình ảnh vừa mang đậm vẻ cổ điển, Đường thi vừa phảng phất phong vị của hiện đại. Cụm từ Hán Việt này gợi mở không khí cổ kính uy nghiêm. Thay vì “trường giang”, dễ gợi liên tưởng con sông của Trung Quốc, “Tràng giang” , hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ trải dài mà còn rộng theo không gian, mênh mang và vô tận.
Trong khổ thơ thứ 3, từng câu thơ đều là nỗi niềm của tác giả. Cảnh sông nước mênh mang, rộng lớn được thu lại bằng hình ảnh: “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”. "Bèo" vốn là một hình ảnh quen thuộc trong văn học cổ điển, ngoài nghĩa thực chỉ sự vật nhỏ bé tầm thường còn ám chỉ những số phận, cho kiếp nhân sinh lênh đênh, trôi nổi, mặc cho dòng đời đẩy đưa. Hình ảnh “bèo dạt về đâu” chính là một lời tự hỏi, là sự đau đớn, bất lực của tác giả trước số phận nô lệ, cảnh nước mất nhà tan. Hình ảnh những đám bèo nối tiếp nhau lững thững, lặng lờ trôi dạt trên dòng sông, “ hàng nối hàng” gợi cảm giác trải dài miên man vô tận, hướng độc giả phóng tầm mắt ra tối đa. Tả cảnh nhưng ta cảm nhận được nỗi sầu muộn chênh vênh, tương lai dường như mờ nhòe, vô định, mất phương hướng vật vờ mà không biết nên đi đâu, về đâu của tác giả hay cũng là của cả thế hệ thanh niên yêu nước.
Đến hai câu thơ tiếp theo, khung cảnh thiên nhiên hiện lên càng hoang sơ, heo hút, cô quạnh, thiếu sức sống:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”
Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ là những phương tiện, biểu hiện của sự sống, sự tồn tại và kết nối của con người và cuộc sống, thường gợi về cuộc sống tấp nập, gần gũi. Thế nhưng, cả 2 hình ảnh này ở đây đều xuất hiện dưới dạng phủ định “không đò… không cầu…” khiến khung cảnh ấy mới trống vắng, heo hút và quanh hiu làm sao. Giữa cảnh tăm tối ấy, lữ khách muốn tìm một con thuyền, một dấu hiệu của sự sống nhưng chỉ nhận lại là sự im ắng, vắng vẻ “không một chuyến đò ngang” "không cầu", không có một tổ chức, một con người nào có thể dẫn dắt đưa lối, kéo những tiểu tư sản trí thức như Huy Cận ra khỏi sự hoang mang, vô định. Dường như hai bờ sông chạy dài vô tận, không có điểm dừng, như hai thế giới cô đơn, không một chút “ niềm thân mật” sự gắn kết, đồng điệu của con người. Sự thực ấy khiến người ta không khỏi đau xót cho một đất nước, một dân tộc, và cả những con người lạc lõng, bơ vơ “Không cầu gợi chút niềm thân mật”, cuối cùng họ, Huy Cận vẫn phải tự ôm lấy nỗi cô đơn, buồn tủi giữa thiên nhiên rộng lớn mà ảm đạm, hiu hắt:
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Trong câu thơ này, tưởng chừng bức tranh thiên nhiên màu sắc tươi sáng, ấm áp hơn nhưng nó vẫn mang vẻ tĩnh lặng, heo hút, không có dấu hiệu của con người. Chính vì vậy nên dù có đẹp như thế nào, thì đây cũng là một bức tranh đượm buồn và nó dường như thiếu đi âm thanh ồn ào, vội vã của cuộc sống. Tả cảnh để ngụ tình, phải chăng đằng sau cảnh thiên nhiên này chính là sự đau đáu của người thi sĩ Huy Cận trước thực tại.
Bốn câu thơ, bốn hình ảnh, tất cả đều gợi lên khung cảnh thiên nhiên đượm buồn, lặng lẽ mà không có một âm thanh dù chỉ là xơ xác. Đằng sau khung cảnh ấy là nỗi lòng của thi sĩ, sự đau đáu, buồn bã về số phận nổi trôi, bơ vơ, bất hạnh, cô đơn của kiếp người trong xã hội cũ. Nghệ thuật lấy “không” để nói “có” kết hợp với thủ pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc trong thơ ca cổ điển được vận dụng linh hoạt đã giúp tác giả có cơ hội bộc lộ, giãi bày nỗi lòng mình. Đọc bài thơ, giúp chúng ta hiểu vì sao Xuân Diệu từng đánh giá “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông, đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”.
- Phân tích khổ thơ cuối bài Tràng giang
- Phân tích bài thơ Con đường mùa đông
- Nêu cảm nhận về bài thơ Con đường mùa đông
- Phân tích bài thơ Thời gian
- Phân tích Tràng Giang của Huy Cận.
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 11 - Kết nối tri thức - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề: Sự ảnh hưởng của bùng nổ dân số lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về tác hại của mạng xã hội lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng tiêu cực trong thi cử lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng vô cảm lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề an toàn giao thông lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề: Sự ảnh hưởng của bùng nổ dân số lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về tác hại của mạng xã hội lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng tiêu cực trong thi cử lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng vô cảm lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề an toàn giao thông lớp 11