Phân tích nhân vật Thị nở>
I. Mở bài - Vài nét về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo - Khẳng định trong truyện ngắn có một tình yêu nảy sinh giữa Chí Phèo và người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn”, nhưng không thể phủ nhận đó là nhân vật có vị trí quan trọng, it nhất, cũng coi Chí như một “con người” – Thị Nở
Tổng hợp đề thi giữa kì 1 lớp 11 tất cả các môn - Kết nối tri thức
Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Vài nét về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo
- Khẳng định trong truyện ngắn có một tình yêu nảy sinh giữa Chí Phèo và người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn”, nhưng không thể phủ nhận đó là nhân vật có vị trí quan trọng, it nhất, cũng coi Chí như một “con người” – Thị Nở
II. Thân bài
1. Ngoại hình
- Miêu tả khách quan, trần trụi: một người “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn”
+ Ngẩn ngơ: hành động theo bản năng
+ Xấu ma chê quỷ hờn: từng đường nét trên khuôn mặt không giống với những gì nên có trên khuôn mặt con người
+ Đã vậy, Thị còn nghèo và nhà có mả hủi:
→ Thị khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn những điều bất lợi
2. Là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người
- Nam Cao xây dựng hình tượng nhân vật Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương của Thị Nở
+ Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, Thị Nở dành sự quan tâm cho Chí Phèo:
+ Thị Nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Bưng bát cháo hành thị Nở đưa cho “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”
+ Chính thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người” ⇒ một cái nhìn khác với những cái nhìn của người làng Vũ Đại
+Tình cảm và sự quan tâm của Thị Nở với Chí Phèo đã như một liều thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay trở lại thành một người với sự lương thiện trong căn tính
→ Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong mắt Chí
3. Thị Nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình
- Thị Nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng
- Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí
- Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích”
- Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên Thị đã trở về xin phép bà cô và thái độ tức giận khi bà cô từ chối
4. Là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: bi kịch cuộc đời Chí Phèo
- Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao muốn làm trọn vẹn thêm vấn đề trung tâm của tác phẩm: sự bi thảm trong bi kịch cuộc đời Chí Phèo
+ Ban đầu, Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau chỉ bởi sự chung đụng về mặt thể xác
+Sau đó, chính tình thương của Thị Nở đã làm thức dậy sự lương thiện vốn có trong Chí
+ Khi Thị Nở từ chối Chí, Chí Phèo từ chỗ khát khao và hạnh phúc đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng → đẩy Chí đến những hành động sau này: uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát
→ Thị Nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính: Chí Phèo
III. Kết bài
- Khẳng định những nét nghệ thuật làm nên hình tượng nhân vật Thị Nở
- Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao trao tấm lòng trân trọng vào con người, đồng thời cũng phơi bày thực tế tàn bạo, khắc nghiệt của xã hội đẩy người nông dân vào bi kịch
Bài tham khảo Mẫu 1
“Chao ôi! Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối,nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia,thoát ra từ kiếp lầm than”. Ấy là tuyên ngôn nghệ thuật đanh thép của Nam Cao – cây bút hiện thực xuất sắc của văn học giai đoạn 1930 – 1945. Với quan điểm đó, Nam Cao viết nhiều về tầng lớp nông dân với những bi kịch cuộc sống. Nhân vật Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” chính là điển hình cho những con người cùng khổ.
Thị Nở hiện lên trước hết ở chân dung xấu xí. Cái xấu ấy được Nam Cao miêu tả là “Ma chê quỷ hờn”. "Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành”. Không chỉ thô kệch về ngoại hình, Thị Nở còn vừa nghèo vừa ngớ ngẩn. Cái nghèo đeo bám Thị Nở. Công việc gánh nước thuê chỉ đủ kiếm sống qua ngày. Không chồng, không con, lại ở với người cô già nên Thị Nở cũng không được ai yêu thương. Dường như tạo hóa đã dành những phần vụng về, thừa thãi nhất để tạo ra thị . Nam Cao ít khi miêu tả kỹ lưỡng ngoại hình nhân vật nhưng ở đây, nhà văn đã dụng công khắc họa chân dung Thị Nở để làm nổi bật những vẻ đẹp tâm hồn đáng trọng.
Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau là cái duyên. Hai kẻ đứng bên lề xã hội, chịu đựng sự ghẻ lạnh từ người ngoài đã tìm thấy ánh sáng nơi nhau. Chính nhờ cuộc gặp gỡ với Chí Phèo và Thị Nở bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp. Ở Thị Nở, ta tìm thấy sự lương thiện, trong sáng. Thị thản nhiên gánh nước trên lối nhỏ qua vườn nhà Chí và còn vô tư nằm ngủ trong cái chòi rách của hắn. Ban đầu, thị còn giật mình, sợ hãi vì sự xuất hiện của Chí. Thị la làng. Chí Phèo thấy thế bèn lấy làm lạ, hắn cũng la lên vì ở làng Vũ Đại, làm gì có ai dám tranh la làng với hắn. Thế rồi, Thị Nở cũng bật cười. Chúng cười với nhau và say ngủ bên nhau. Có thể thấy, chính sự ngờ nghệch, hồn nhiên của Thị Nở đã kéo hai người lại gần nhau hơn. Trong khi mọi người ghê tởm, xa lánh Chí Phèo thì thị vẫn đi qua vườn nhà Chí, thậm chí có lần còn xin hắn ít rượu thuốc đem về. Thị không hiểu sao người ta lại ghê hắn đến vậy. Thị Nở đã nhìn ra những điều khuất lấp đáng thương ở con quỷ của làng Vũ Đại.
Thị Nở còn là người phụ nữ có tấm lòng nhân hậu, giàu tình thương. Sau đêm ăn nằm với Chí, Thị Nở không bỏ đi mà còn ở lại chăm sóc Chí Phèo khi hắn gặp trận ốm nặng. Từng cử chỉ, hành động của thị dù giản đơn nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn với Chí. Thị đắp cho hắn manh chiếu, về nhà kiếm ít hành nấu cho hắn bát cháo. Bát cháo hành là hiện thân của đức hi sinh, sự cảm thông, tình yêu thương thuần khiết. Chí Phèo cảm động một cách kì lạ vì đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho. Bao nhiêu khát khao hạnh phúc về gia đình ấm êm lại ùa về trong Chí. Chỉ nhờ bát cháo hành mà Thị Nở đánh thức sự lương thiện tưởng như đã mất của Chí Phèo. Từ đó, Chí thấy cuộc đời xung quanh trở nên đẹp hơn, hắn mong muốn quay lại làm người một cách đúng nghĩa.
Khát khao hạnh phúc không chỉ tồn tại ở Chí mà còn xuất hiện ở chính Thị Nở. Thị cũng khát khao được yêu thương, trân trọng. Thị nghiêm túc suy nghĩ về việc xây dựng một gia đình nhỏ với Chí Phèo. Tình yêu khiến cho con người đẹp lên. Thị không còn là người đàn bà dở hơi, Chí không còn là kẻ rạch mặt ăn vạ. Những ngày tháng ấy là những ngày đẹp đẽ, mơ mộng nhất cuộc đời Thị Nở.
Như những nhân vật điển hình trong sáng tác của Nam Cao, ở Thị Nở vẫn tồn tại sự mâu thuẫn, giằng xé khi đấu tranh cho tình yêu. Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ. Cuộc tình ấy kéo dài đến ngày thứ sau thị bỗng nhớ ra hôm nay người cô sẽ về. Thị phải “dừng yêu” để thưa chuyện với bà cô. Ai dè, thứ thị nhận được là lời độc địa: “Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!”. Điều ấy khiến Thị Nở tức giận nên thị trút lên Chí Phèo tất cả lời bà cô rồi ngoáy ngoáy mông đít đi ra về. Chí Phèo đuổi theo thị, nắm lấy tay để níu giữ tình yêu nhưng Thị Nở vẫn bỏ đi như quên hết mọi thứ. Tác phẩm kết thúc một cách bi kịch bằng cái chết của Chí Phèo và hình ảnh cái lò gạch cũ bỗng xuất hiện trong tâm trí Thị Nở.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo, tình huống truyện gay cấn, Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật Thị Nở. Dù tác phẩm có một kết thúc đau thương nhưng không thể phủ nhận những phẩm chất đáng trọng ở Thị Nở. Thị là người phụ nữ giàu tình thương, trong sáng, biết cảm thông. Bất chấp ngoại hình xấu xí hay sự gàn dở trong đầu óc, Thị Nở vẫn là nguồn sáng lấp lánh vụt qua cuộc đời Chí Phèo.
Từ nhân vật Thị Nở, Nam Cao bày tỏ niềm thương cảm trước cuộc đời khổ sở về cả thể xác lẫn tinh thần của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Đồng thời, nhà văn thể hiện thái độ trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp tâm hồn tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ. Tác phẩm còn là lời tố cáo đanh thép tội ác của bọn thực dân phong kiến.
Bài tham khảo Mẫu 2
Trước cách mạng tháng tám, Nam Cao nổi lên như một hiện tượng của văn học hiện thực với những tác phẩm xoay quanh hai chủ đề chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Trong số đó, “Chí phèo” được xem như là một kiệt tác của ông bởi sự tài hoa trong việc khắc họa những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình.
Nếu như Chí Phèo hiện lên với những tính cách, bộ dạng của một con quỷ trong một cuộc sống đầy mâu thuẫn và cùng cực thì Thị Nở lại hiện lên với một bộ dạng xấu xí chưa từng thấy trong lịch sử văn học. Hai con người bị xã hội ruồng rẫy được đặt cạnh nhau trong một câu chuyện để rồi tạo nên biết bao giá trị nhân văn sâu sắc.
Có ai ngờ một nhân vật như Thị Nở lại trở thành một bước ngoặt trong câu chuyện, đưa Chí Phèo từ một con quỷ dữ trở về đời sống của một con người. Câu chuyện được Nam Cao viết vào năm 1936, nguyên có tên là Cái lò gạch cũ, sau đó nhà xuất bản Đời mới tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội,1946), tác giả đặt lại tên là Chí Phèo.
Tác phẩm “là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân” với câu chuyện xoay quanh cuộc đời và nhân vật Chí Phèo. Bên cạnh đó, là một nhân vật phụ song lại có một vị trí quan trọng mang tính chất bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo-Thị Nở. Chính Thị đã làm cho một kẻ chỉ biết chém giết và uống rượu biết mơ ước về một gia đình và sống đúng nghĩa một con người.
Trong tác phẩm của mình, Nam Cao không tập trung miêu tả kĩ về thân thế Thị Nở mà chỉ phác họa đôi nét. Về lai lịch, ông chỉ kể ngắn gọn, Thị có “ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị… Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả”.
Ngược lại, Nam Cao lại tập trung vào điểm nhấn điển hình của Thị :là người xấu nhất làng Vũ Đại, vốn được Nhà văn miêu tả như sau: “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”
“Đã thế thị còn dở hơi… và thị lại nghèo… và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”Thế nên, người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm… Song chính chân dung đầy kinh hãi ấy lại làm nổi bật hơn những phẩm chất của Thị. Khác với Chí Phèo, Thị Nở xuất hiện ở phần sau của câu chuyện khi mà Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Lúc ấy, sau khi uống rượu ở nhà tự Lãng, Chí “lảo đảo ra về, nhưng không về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng.-ra sông kín nước ngồi nghỉ rồi ngủ quên. Họ ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng”.
Cứ tưởng đó chỉ đơn thuần là bản năng trỗi dậy, song sau sự việc đó, Thị Nở đã có sự thay đổi. Thị chìm đắm trong cơn say của bản năng thiên tạo, quên hết thảy mọi ràng buộc, mọi định kiến trên đời, trong đầu Thị giờ chỉ còn hình ảnh của Chí Phèo. Và cứ thế những gì thuộc về bản chất của người đàn bà cứ thế bộc lộ ra.
Thị nhận thức được tình yêu thương trong mình, khi thấy “Nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về…”. Nghe có vẻ phũ phàng khi Thị bỏ Chí Phèo về trong đêm và dường như hành động quan tâm của Thị chỉ là sự đáp trả cho việc đã xảy ra giữa hai người.
Tuy nhiên không phải vậy, trong lúc Chí Phèo đang “thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc” và chìm đắm trong những ý nghĩ về cuộc đời mình “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “Chí Phèo hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc” thì Thị Nở xuất hiện.
Sự xuất hiện của Thị như một sự cứu rỗi linh hồn của hắn: “Nếu Thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất”. “Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên.” Rõ là thị về để chuẩn bị nồi cháo ấy cho hắn dẫu cho “lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát”.
Thế nhưng “Vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ mang cho Chí Phèo”. Một người ngẩn ngơ, không quan tâm ai bao giờ như Thị, nay lại dành hết thảy mọi yêu thương cho Chí Phèo – “ đó là cái lòng yêu của một người làm ơn,..cũng có cả cái lòng yêu của một người chịu ơn”. Nhưng sự làm ơn của Thị vốn dĩ không bình thường, bởi lẽ người chịu ơn lại là một con quỷ dữ mà không ai dám lại gần.
Phải can đảm và giàu lòng yêu thương lắm thì Thị mới dám hết lòng với Chí bởi theo thị, Chí là “cái thằng trời đánh không chết ấy” . Trong cái “xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại)” và cứ thế “người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh.
Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một “con quỷ dữ” chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, “mặc thây cha nó”,” (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992).
Người ta cho rằng Thị là kẻ ngẩn ngơ, chẳng ai ngó ngàng nhưng chính Thị lại là kẻ tỉnh nhất trong những người điên. Khi mà mọi người vẫn cho rằng Chí là kẻ không thể cải tạo thì chỉ bằng bát cháo hành và sự quan tâm thì Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao” và ước mong có một gia đình.
Rõ ràng, Thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong một con người. Và một lần nữa hành động của Thị đã chứng mình cho tình yêu thương là không giới hạn dẫu rằng Thị chỉ là một kẻ xấu xí, bị xa lánh.
Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ: Cứ tưởng Thị và Chí sẽ sống bên nhau hạnh phúc vậy mà “đến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Một người gàn dở đến mức quên cả người thân đã đành nay lại còn có khái niệm “dừng yêu”.
Tường rằng khi bị bà cô xỉa xói “đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!” Thị sẽ bảo vệ tình yêu của mình nhưng không “Thị nghe thấy thế mà lộn ruột…Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi”. Và khi bị Chí chửi vì phải đợi “Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng…
Thị chống tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô” rồi “ngoay ngoáy mông đít đi ra về” xem mọi thứ như chưa từng xảy ra mặc cho “đuổi theo Thị, nắm lấy tay”. Thị dường như quên hết mọi thứ, bát cháo hành và tình yêu thương trước đó của mình. Chính cái sự gàn dở trong suy nghĩ và hành động của Thị đã đẩy câu chuyện đến bi kịch bằng cái chết của Chí.
Dẫu rằng trong tâm tư và hành động của Thị vẫn có nhiều mâu thuẫn song trong một con người gàn dở lại có một sự yêu thương mà người bình thường không hề có thì thật đáng trân trọng. Rõ ràng, Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng một hình tượng như thế. Từ đó chứng tỏ khả năng thiên bẩm của ông trong việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh của mình.
Khác với những nhân vật thường thấy trong các tác phẩm văn học, Nam Cao không chọn cho mình một nhân vật đẹp người đẹp nết như nàng Tấm để ra tay cứu vớt đời Chí Phèo mà để cho một nhân vật xấu xí bậc nhất lịch sử Việt Nam xuất hiện.
Để rồi làm toát lên những thông điệp mà ông muốn gửi gắm, trong cái xã hội ấy, cái xã hội của sự chia cách phân biệt, nơi con người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau mà sống thì tình yêu thương dẫu xuất phát từ một con người xinh đẹp hay xấu xí đều rất đáng trân trọng.
Và dù trong hoàn cảnh nào, dù có đói khổ ra sao thì chỉ cần tình yêu thương con người ta sẽ lấp đầy tất cả khó khăn đó bởi lẽ “người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ” (Phrangxoa Cope)
Bài tham khảo Mẫu 3
Là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao không hề tô vẽ những cuộc đời, những số phận của người nông dân. Những nhân vật của ông luôn là những con người bình dị, chân quê và có phần xấu xí. Trong đó có thể kể đến Thị Nở trong truyện ngắn "Chí Phèo" là một người đàn bà xấu xí và dở hơi có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Vậy mà người đàn bà ấy lại có khả năng đánh thức con người lương thiện trong hình hài quỷ dữ Chí Phèo. Có lẽ, điều kì diệu ấy chắc chỉ có Thị Nở mới làm được và chắc cũng chỉ có Nam Cao mới có thể biến hóa được.
Xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí không phải nhà văn muốn bôi bác người phụ nữ Việt Nam, mà ngược lại, tác giả chính là muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn của họ, mặc dù hình hài của họ có phần xấu xí. Mà Thị Nở thì xấu thật "cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn...Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành..." Với những dòng miêu tả đầy chân thực như thế này, người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. "Đã thế thị lại dở hơi...Và thị lại nghèo...Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi...". Thế nên, Thị Nở không có chồng và "người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm".
Vậy mà Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo – con quỷ của làng Vũ Đại mà ai ai cũng xa lánh. Có lẽ đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi để cho một kẻ dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đến với nhau và yêu nhau. Chính tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người.
Thị từ một người đàn bà xấu xí dở hơi đã trở thành một người phụ nữ biết quan tâm và lo lắng cho người khác: "Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng...Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà...". Không những thế, khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị đã coi đó là người đàn ông của đời mình cho nên hết sức lo lắng và thương yêu. Ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên.
Bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những quan tâm mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn thực sự xúc động. Hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì thế hắn muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời bình dị mà hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói tình yêu của người đàn bà dù xấu xí nhưng vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không những thế, có lẽ, cả làng Vũ Đại không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo, vậy mà chỉ một người phụ nữ xấu xí, dở hơi bằng tình yêu chân thành của mình lại có thể làm được.
Quả thật Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh con quỷ dũ làng Vũ Đại và còn thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở – người phụ nữ đầy tình thương yêu và bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Tình yêu của người đàn bà xấu xí là tình yêu chân thành, xuất phát tự trái tim, từ lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi cho nên nó là một tình yêu đẹp và rất đáng trân trọng. Thị chính là tia sáng, là niềm hy vọng, là cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, sống với cộng đồng. Mặc dù sau này Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, một số phận. Để cho ngay cả những kẻ cùng đường, lạc lối vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, vẫn khao khát được sống và được yêu.
Với tác phẩm "Chí Phèo", người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như Thị Nở cũng khiến cho người đọc nhớ mãi. Tuy rằng xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm của người phụ nữ đã làm cảm hóa được một "con quỷ dữ", thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Đó chính là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.
Bài tham khảo Mẫu 4
Cùng với Lão Hạc, truyện ngắn Chí Phèo là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cả hai truyện ngắn xuất sắc này đều được chọn đưa vào chương trình phổ thông (Ngữ văn 8 và Ngữ văn 11, tập 1) cùng với nhiều truyện ngắn khác, từng đem đến cho Nam Cao vinh dự là tác gia có số lượng truyện ngắn trong nhà trường phổ thông nhiều nhất.
Lâu nay, nhắc đến hình tượng nhân vật điển hình của truyện ngắn Chí Phèo, người ta nghĩ ngay đến nhân vật chính mà tác giả lấy làm nhan đề tác phẩm mình lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ. Khi in thành sách lần đầu (1941), Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo (Ngữ văn 11 Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, H., 2007, tr. 178). Đã có không ít những công trình, bài viết về nhân vật độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam này. Đây là điều tất yếu. Bởi toàn bộ ý nghĩa của nội dung truyện ngắn hầu như toát ra từ hình tượng nhân vật Chí Phèo (Trần Tuấn Lộ trong bài viết Qua truyện ngắn "Chí Phèo" bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao, T/c Văn học, số 4/1964) và Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân.
Bên cạnh Chí Phèo, theo chúng tôi, còn có một hình tượng nhân vật điển hình nữa mà ta vẫn ít nhắc tới. Nhân vật này xuất hiện không nhiều, chỉ có mặt ở gần cuối truyện, là một nhân vật phụ nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển mạch truyện. Sự xuất hiện của nhân vật này là một bước ngoặt đối với sự chuyển biến của câu chuyện cũng như đối với cuộc đời, số phận của nhân vật trung tâm. Hơn nữa, nhân vật này còn mang tính điển hình rất rõ nét. Đó là nhân vật bà cô Thị Nở.
Quả thật, nhân vật bà cô Thị Nở chỉ là một nhân vật phụ. Trong truyện, Nam Cao miêu tả nhân vật bà cô ấy không nhiều, chỉ phát thảo sơ lược vài nét. Về lai lịch, tác giả chỉ kể ngắn gọn: "trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị...Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả". Ngay cả cái tên nhân vật này cũng không có, chỉ được gọi theo quan hệ họ hàng với nhân vật chính. Ở gần cuối truyện, khi Thị Nở sau năm ngày ăn ở với Chí, đến ngày thứ sáu, sực nhớ mình còn người cô và "nghĩ bụng: Hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã" thì nhân vật bà cô này mới hiện lên qua một ít suy nghĩ và hai lời thoại. Tất cả chỉ có vậy. Cho nên rất khó để dựng chân dung nhân vật này.
Tuy chỉ là nhân vật rất phụ nhưng có thể nói, nhân vật bà cô này lại là một tình tiết bất ngờ, vô cùng quan trọng làm xoay chuyển toàn bộ câu chuyện cũng như cuộc đời nhân vật Chí Phèo. Chỉ một câu nói tàn nhẫn "Đã nhịn được đến bằng tuổi này thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo" đã đụng chạm đến tận cùng đến lòng tự ái của một người đàn bà đã quá ba mươi, "ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn" và dở hơi, ế chồng. Chính câu nói cay độc vô ấy đã đoạn tuyệt một cách đau đớn một tình yêu vừa mới chớm, đã lạnh lùng cắt đứt sợi dây liên lạc cuối cùng giữa Chí với loài người. Bát cháo hành "mới thơm làm sao" chưa kịp đưa Chí từ thế giới loài quỷ quay về xã hội con người thì một câu nói cay nghiệt ấy coi như là dấu chấm hết cho mọi quá trình tái sinh trong Chí, đẩy Chí xuống tận cùng vực thẳm khổ đau và cái chết dữ dội. Có người bảo phải chi Nam Cao đừng xây dựng nhân vật này, hay ít nhất đừng để bà cô Thị Nở không xuất hiện ở cuối truyện thì câu chuyện sẽ kết thúc có hậu hơn biết mấy. Có thể là như vậy. Nhưng theo chúng tôi, nếu cắt đi chi tiết này thì Nam Cao không còn là chính ông nữa. Giá trị của Chí Phèo cũng vì thế giảm sút rất nhiều. Bởi cái chết của Chí với nhiều nguyên nhân, trong đó trực tiếp nhất là sự khước từ một cách thô bạo của bà cô Thị Nở, mang nhiều ý nghĩa. Riêng ở nhân vật người cô này cũng mang nhiều giá trị điển hình.
Trước hết nhân vật này rất tiêu biểu cho câu thành ngữ của dân gian "giặc bên ngô không bằng bà cô không chồng" (Còn có dị bản "giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng"). Bà cô Thị Nở đã ngoài năm mươi, hơn nửa cuộc đời mà vẫn không tìm được một tấm chồng. Trong mắt của người đàn bà khốn khổ ấy, chuyện chồng con của "con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời" "sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt...Nhục nhã ơi là nhục nhã". Thái độ giãy nảy lên, những lời cay độc, "xỉa xói vào mặt con cháu gái" đã có hiệu quả ngay lập tức. Bởi bà cô này tự ái, uất ức bao nhiêu thì cháu bà càng tự ái, uất ức bấy nhiêu. Thậm chí cả khi Chí chết đi rồi, bà vẫn không tha cho cháu mình mà còn "chỉ vào mặt cháu mà đay nghiến". Rõ ràng, thái độ, lời nói của nhân vật rất tiêu biểu cho những nét tính cách của những người phụ nữ lớn tuổi lận đận trong chuyện tình duyên. Xét cho cùng, nó mang nỗi ẩn ức tính nữ cả về tâm lí lẫn sinh lí mà biểu hiện rõ nhất là thái độ "không ăn được thì đạp đổ", "trâu buộc ghét trâu ăn". Bà cô không chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có thể xem là một điển hình. Tuy vậy, ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người đọc xót xa, tội nghiệp, thấy đáng thương hơn là đáng ghét. Ngòi bút nhân đạo Nam Cao không dừng lại ở lời nói, hành động nhân vật mà còn đi sâu mổ xẻ tâm trạng khi nhân vật rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trên. Nhà văn viết : "Cũng có lẽ tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm..." Chỉ từng ấy thôi, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ không chồng trong xã hội cũ – xã hội thực dân nửa phong kiến cũng bất công, ngang trái không thua gì xã hội trước đó.
Đặc biệt, nhân vật bà cô Thị Nở rất điển hình cho người nông dân ở làng Vũ Đại ngày ấy nói riêng và làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng 1945 nói chung. Đó là một xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại) (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992). Nghiêm trọng nhất, đó là xã hội sống trong những định kiến nghiệt ngã. Trong cái làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ (Đức Mậu, tài liệu đã dẫn) ấy, người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh. Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một con quỷ dữ chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, mặc thây cha nó, coi như Chí không hề tồn tại trong cộng đồng "người" ấy. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về những quãng đời u ám của Chí này có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường vô hình cao ngất mà Chí khi được tình yêu Thị Nở tái sinh trở nên "thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao", tìm mọi cách vượt qua nhưng mãi không phá bỏ được. Ngay cả khi Chí chết đi một cách thảm khốc, người làng chẳng một ai tỏ ra xót xa cho Chí, dẫu một giọt nước mắt thương hại. Làng Vũ Đại là một điển hình cho làng quê nông thôn miền Bắc trước 1945. Trong cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc hậu ấy, nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành công mang giá trị điển hình rõ nét. Những suy nghĩ của bà cô khi đứa cháu thưa chuyện "vợ chồng" với Chí (Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ) cũng như câu nói đay nghiến của bà cuối truyện với Thị Nở trước cái chết không ai ngờ được của Chí "Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo" đã nói lên tất cả. Bà cô không được mô tả nhiều nhưng qua những suy nghĩ, thái độ, ngôn ngữ của nhân vật này, hiện thực làng quê nông thôn Bắc Bộ trước 1945 còn mang nhiều định kiến nặng nề, lạc hậu đã được phản ánh, khái quát rất thành công.
Tóm lại, không được miêu tả cụ thể, đầy đủ nhưng nhân vật bà cô Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao. Bên cạnh Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, nhân vật này cũng mang trong mình nhiều ý nghĩa điển hình như trên đã phân tích, do đó mang nhiều giá trị nội dung của tác phẩm. Xây dựng nhân vật này, Nam Cao đã sử dụng một ngòi bút sắc sảo, không tả nhiều nhưng giàu sức ám ảnh. Nhiều người thường nghĩ về nhân vật này với cái nhìn ác cảm, ghét bỏ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, suy cho cùng nhân vật bà cô Thị Nở cũng chỉ là nạn nhân của số phận, của chế độ xã hội cũ đen tối mà thôi. Nhân vật náy đáng thương hơn là đáng ghét. Đây cũng là một biểu hiện của ngòi bút lấp lánh tình người, sáng ngời giá trị nhân văn của Nam Cao.
- Phân tích nhân vật Bá Kiến
- Phân tích tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
- Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Phân tích nghệ thuật trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
- Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 11 - Kết nối tri thức - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề: Sự ảnh hưởng của bùng nổ dân số lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về tác hại của mạng xã hội lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng tiêu cực trong thi cử lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng vô cảm lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề an toàn giao thông lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề: Sự ảnh hưởng của bùng nổ dân số lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về tác hại của mạng xã hội lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng tiêu cực trong thi cử lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về hiện tượng vô cảm lớp 11
- Viết bài văn Nghị luận về vấn đề an toàn giao thông lớp 11