Văn mẫu lớp 11 - Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 Kết nối tri thức Bài 2: Cấu tứ và hình ảnh trong thơ trữ tình - Văn mẫu ..

Phân tích bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng trong bài thơ Tràng giang


I. Mở bài - Dẫn dắt giới thiệu đoạn thơ: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

Tổng hợp đề thi giữa kì 1 lớp 11 tất cả các môn - Kết nối tri thức

Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài

- Dẫn dắt giới thiệu đoạn thơ:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

+ Xuất hiện vào giai đoạn toàn thịnh của thơ Mới, Huy Cận (1919 – 2005), quê ở Hương Sơn – Hà Tĩnh, là một trong những thi sĩ có công đưa phong trào này lên tới đỉnh cao. Ở độ chín nhất, phong cách thơ Huy Cận có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển nhất là cổ điển Đường thi với yếu tố thơ Mới, cụ thể hơn là sự hòa hợp giữa nỗi sầu vũ trụ và thế nhân từng chan chứa trong thơ Đường với nỗi cô đơn của cái “tôi” cá nhân, cá thể trong thơ Mới tạo nên nỗi sầu vạn kỉ.

- Bài thơ Tràng giang sáng tác năm 1939, in trong tập Lửa thiêng là bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám được xếp vào hàng kiệt tác.

II. Thân bài

1. Bức tranh thiên nhiên về trời rộng sông dài trong Tràng giang

* Khổ 1: Bức tranh sông nước buồn vắng

- Câu thơ mở đầu đã mở ra một không gian sóng nước mênh mông:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

- Trên bức tranh sông nước ấy hiện lên một hình ảnh quen thuộc:

Con thuyền xuôi mái nước song song

Sự xuất hiện của con thuyền trong thơ văn xưa nay thường chỉ sự lênh đênh trôi dạt.

Ở đây ngoài ý nghĩa ước lệ ấy, con thuyền hiện lên giữa sông nước mênh mang còn gợi ra sự bé nhỏ, đơn độc, lẻ loi. Con thuyền ấy lại đang ở trạng thái “xuôi mái”, nghĩa là còn có thêm tính chất thụ động, phó mặc cho dòng nước đẩy đưa…

- Đến câu thơ thứ ba, nhà thơ tiếp tục những nét vẽ về thuyền và nước nhưng lại đặt trong sự chia lìa: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

- Giữa dòng tràng giang cổ điển mang phong vị Đường thi, nhà thơ đã thả xuống một hình ảnh “sống sít” của hiện thực (chữ dùng của Xuân Diệu) ở câu cuối cùng:

Củi một cành khô lạc mấy dòng. Hình ảnh cành củi khô nhỏ bé được tác giả đặt vào một thế tương phản mạnh mẽ, lạc giữa mấy dòng.

Hình ảnh cành củi khô nhỏ bé được tác giả đặt vào một thế tương phản mạnh mẽ, lạc giữa mấy dòng nước mênh mang vô tận đã càng nhấn mạnh sự vô định, lạc lõng, bơ vơ hết sức tội nghiệp.

* Khổ 2: Bức tranh cồn bãi hoang vắng

- Trên nền không gian dòng sông dài rộng không cùng và cổ kính lâu đời, nổi bật lên hình ảnh của cồn bãi:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

+ Từ láy “lơ thơ” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự thưa thớt, khiến cồn cát vốn đã nhỏ càng trở nên trống trải giữa mênh mang sông nước.

+ Từ láy “đìu hiu” gợi ra hình ảnh của ngọn gió lạnh vắng, hiu hắt.

- Nhà thơ không chỉ cảm nhận Tràng giang bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng thính giác:

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

+ Âm thanh của tiếng chợ chiều dù là dấu hiệu của sự sống con người nhưng lại vào lúc đã vãn, gợi ra sự tàn tạ, chứa chất nỗi buồn.

+ Âm thanh ấy lại vẳng đến từ một không gian rất xa, càng trở nên nhỏ nhoi và buồn vắng, gọi cảm giác đây là chốn bị bỏ quên trên trái đất này.

- Đến hai câu thơ cuối, cái nhìn của Huy Cận còn bao quát một phạm vi không gian từ cao đến thấp, từ gần đến xa:

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

- Hai cặp tiểu đối “nắng xuống – trời lên”, “sông dài – trời rộng” đã tạo nên một bức tranh không gian ba chiều rất đặc sắc.

- Xuất thần nhất là cụm từ “sâu chót vót”.

- Giữa không gian vũ trụ mênh mang không cùng, nổi bật lên hình ảnh “bến cô liêu” nhỏ bé, lạc lõng đến tội nghiệp.

2. Bức tranh tâm trạng trong Tràng giang

(Bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng trong Tràng giang được lồng vào nhau, hòa quyện với nhau. Vì vậy khi nêu cảm nhận bức tranh thiên nhiên không thể bỏ qua bức tranh tâm trạng của tác giả, tuy nhiên các em học sinh nên điều chỉnh dung lượng của phần cảm nhận này vừa phải cho phù hợp với đề bài.)

* Khổ 1:

- Ngay từ câu thơ mở đầu, dòng tràng giang hiện lên vừa là một hình ảnh ngoại giới vừa là một hình ảnh tâm giới, mang nặng nỗi niềm của thi nhân “buồn điệp điệp”.

“Buồn điệp điệp” là nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng trùng trùng lớp lớp, triền miên, dai dẳng Nỗi buồn ấy đang trải ra cùng với không gian sông nước mênh mang…

- Sự xuất hiện của con thuyền phần nào gợi lên nét tâm lí chán chường của tác giả, của tầng lớp thanh niên tiểu tư sản trong hoàn cảnh đất nước…

- Hình ảnh thuyền nước chia lìa làm cho nỗi buồn trong lòng người tiếp tục lan tỏa rộng thêm và lặn xuống ở chiều sâu “sầu trăm ngả”.

- Hình ảnh cành củi khô phải chăng là một ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời.

* Khổ 2:

- 2 câu đầu là hình ảnh cồn bãi hoàn toàn vắng vẻ, trong cảm giác trống trải, thi nhân đã cố gắng đi tìm dấu hiệu của sự sống con người, của hơi ấm tình người nhưng sự hiện hữu ấy quá nhỏ bé và mờ nhạt nên thi sĩ càng thêm thấm thía sự cô đơn đến cùng cực.

- 2 câu cuối lại nổi bật hình ảnh của “bến cô liêu” bé nhỏ và lạc long giữa sông dài, trời rộng đang mở ra không cùng, đó phải chăng chính là bóng dáng, là nỗi

niềm của chính Huy Cận.

3. Tổng hợp đánh giá

a) Giá trị nội dung:

- Bài thơ đã khắc họa bức tranh mênh mông vô biên và quạnh hiu hoang vắng. Từ thiên nhiên ấy đã làm nổi bật hình ảnh cái tôi là một lữ thứ bơ vơ, cô đơn với nỗi buồn vô tận trước trời nước – biểu hiện của nỗi lòng yêu nước thầm kín thiết tha trong hoàn cảnh đất nước mất chủ quyền.

b) Đặc sắc nghệ thuật:

Sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại.

III. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.

- Khẳng định lại vị trí tác giả - là một trong những đỉnh cao thơ Mới.

Bài tham khảo Mẫu 1

Huy Cận (1919 - 2005), tên khai sinh là Cù Huy Cận, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới. Ông sáng tác rất nhiều bài thơ về cảnh thiên nhiên con người sông nước trong đó tiêu biểu là bài thơ "Tràng giang" được ông sáng tác vào năm 1939 đăng lần đầu tiên trên báo "Ngày nay", sau đó in vào tập "Lửa thiêng". Bài thơ bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha

Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng."

Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Nó gợi lên hình ảnh những con sóng lồng lên nhau và dòng nước cuốn trôi đi xa. Trên dòng sông hình ảnh con thuyền lững lờ xuôi mái nước song song. Dòng sông rộng lớn là thế sao lòng người đầy ắp nỗi buồn. Thuyền và nước luôn gắn liền với nhau thuyền đi được là nhờ nước xô đi thế mà trong thơ Huy Cận lại thấy thuyền và nước chia lìa, bị xa cách nghe đầy xót xa gợi trong lòng nhà thơ buồn trăm ngả, "trăm" là số nhiều chỉ nỗi buồn dài vô hạn. Hình ảnh "củi khô" chỉ sự cô đơn nhỏ bé, "lạc" mang nỗi buồn vô định trôi nổi, lênh đênh trước cảnh thiên nhiên rộng lớn gợi cho người đọc thấy được cảnh cô đơn trống vắng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.

"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "Sâu chót vót" là cách diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu vào cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sống còn người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, vào cô đơn. Nhưng trước mắt nhà thơ lại hiện ra những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:

"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Hình ảnh bèo trôi dạt gợi sự bấp bênh, trôi nổi không biết đi đâu về đâu vô định hướng giữa dòng sông. Ở đây tác giả không chỉ một hay hai cái bèo mà "hàng nối hàng". Hình ảnh gợi cho người đọc đau xót, cô đơn trước thiên nhiên mênh mông rộng lớn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường như không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hòa, nối kết:

"Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật."

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định: "...không ...không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Hết nhìn xung quanh, nhìn ra xa và nhà thơ lại tiếp tục nhìn ra bầu trời:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

Câu thơ giúp người đọc hình dung ra những núi mây trắng xóa được ánh nắng chiếu vào nhìn như được dát bạc. Động từ "đùn" sử dụng rất tài tình những đám mây như có nội lực bên trong từng lớp mây cứ đùn ra đùn mãi.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Hai câu thơ cuối chúng ta bắt gặp nét tâm trạng hiện đại của nhà thơ:

"Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

Từ láy "dợn dợn" kết hợp với cụm từ "vời con nước" cho thấy nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

Bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng trong bài thơ Tràng giang vừa mang nét cổ điển vừa mang nét hiện đại, ngôn ngữ nhẹ nhàng sâu lắng hình ảnh sáng tạo quen thuộc: sông, nước, thuyền... đã tạo lên bức tranh nhiên nhiên và con người trong tràng giang rộng lớn nhưng lòng người lại nặng trĩu nỗi buồn, nỗi nhớ. Bài thơ còn thể hiện niềm khát khao hòa hợp giữa những con người và tình yêu quê hương đất nước kín đáo của nhà thơ.

Bài tham khảo Mẫu 2

Nếu phải kể đến những đôi bạn thơ gắn bó keo sơn, thân thiết với nhau thì trong nền thơ hiện đại Việt Nam, đáng nhắc đến trước tiên vẫn là bộ đôi Xuân Diệu - Huy Cận. Bộ đôi ấy đã hình thành nên một xóm thơ Huy - Xuân trong phong trào Thơ mới. Nhưng điều đó không hề có nghĩa là hai hồn thơ đó giống nhau, mà là ngược lại. Như sau này có người nhận xét: Nếu Xuân Diệu là thi sĩ của niềm ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. Chính cảm hứng về vũ trụ bao la lớn rộng đã góp phần làm nên vẻ đẹp thơ Huy Cận, ngay từ thuở nhà thơ mới viết tập đầu tay - Lửa thiêng. Và khi tìm hiểu một trong những bài tiêu biểu nhất của tập thơ, người ta chắc phải nói đến Tràng giang.

Trên ý nghĩa, Tràng giang là một con sông dài, nhưng Huy Cận lại muốn cảm nhận đó là một dòng sông rộng. Và như thế rõ ràng có lý, có căn cứ bởi cảm giác về dòng sông nếu không được làm nên bởi ấn tượng của thanh âm, bởi cả hai chữ của tựa đề - tràng và giang đều được cấu tạo bởi một nguyên âm rộng nhất trong các nguyên âm. Bên cạnh ấn tượng về chiều rộng được nói đến ở tựa đề bài thơ thì ấn tượng ấy còn có ở cả câu đề từ:

“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”

Chiều cao của bức tranh là khoảng cách giữa trời rộng với sông dài, làm nên đầy đủ, trọn vẹn ba chiều của không gian. Điều ấy rất sớm giới thiệu với người đọc về Huy Cận, một nhà thơ của cảm hứng không gian. Và trong không gian mênh mang ấy, nhà thơ đã thả vào một nỗi nhớ nhẹ nhàng, man mác mà chúng ta có thể thấy được qua những từ nhớ và bâng khuâng mà nhà thơ đặt ngay ở đầu câu.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Bài thơ mở đầu bằng một hình ảnh rất thích hợp với thi đề - sóng. Sóng trên dải tràng giang của Huy Cận không phải là sóng xô, sóng vỗ hay sóng vọt đến lưng trời như trong thơ Đỗ Phủ mà chỉ là sóng gợn. Một chuyển động nhẹ nhàng để gợi ra hình ảnh của một dòng tràng giang tĩnh lặng. Nhà thơ tìm ra cái tĩnh trong cái tưởng như rất động, thể hiện một hồn thơ hay thiên về cái tĩnh. Con sóng gợn trong con mắt đầy xúc động của thi nhân dường như cứ lan tỏa đến vô cùng. Vì vậy, ngay từ câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã chứng tỏ mình đi theo một phong cách thơ khác nhiều lắm so với phong cách thơ cổ điển, đó là sự xuất hiện chữ buồn ngay ở đầu bài - buồn điệp điệp. Nỗi buồn mang hình ảnh của sóng gợn, mượn hình ảnh của sóng để hiện ra trước con người. Như thế, Tràng giang rất sớm trở thành một dòng sông tâm trạng, vừa là hình ảnh của ngoại giới, lại vừa là hình ảnh của tâm giới.

Trên bức tranh sông nước ấy đã hiện lên hình ảnh một con thuyền, một con thuyền không chèo xuôi mái - hình ảnh tĩnh trên một dòng sông tĩnh. Mái chèo buông xuôi dọc bên thân thuyền, để lại hai vệt nước mà nhà thơ gọi là song song. Hai chữ này đã hòa ứng với hai chữ điệp điệp ở cuối câu thứ nhất như để gợi thêm cảm giác về một nỗi buồn vô tận. Bức tranh thiên nhiên mở ra theo cả hai chiều, điệp điệp gợi ra không gian theo chiều rộng, còn song song lại làm nên cảm giác về chiều dài.

Nhưng đến câu thơ thứ ba: Thuyền về nước lại sầu trăm ngả thì hình ảnh nước và thuyền quay trở lại, nhưng không phải thuyền trôi trên dòng nước mà là thuyền về, nước lại. Mỗi sự vật đi kèm với một động từ, tạo nên cảm giác về sự chuyển động trái chiều. Ta cảm tưởng rằng thuyền về, con nước lại và một khoảng trống sẽ được mở ra, một khoảng trống về một mối sầu lan toả, không chỉ được mở ra trên hai chiều trái ngược nhau mà là mọi chiều trong không gian – sầu trăm ngả. Nhà thơ viết trăm ngả dường như khiến người đọc cảm nhận mối sầu ấy không có chỗ tận cùng, và nỗi buồn lại càng mênh mang hơn nữa.

Tuy nhiên, không có câu thơ nào trong khổ này lại khiến Huy Cận phải trăn trở nhiều hơn, tâm đắc nhiều hơn là câu thơ thứ tư:

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Điều rất lạ là câu thơ tâm huyết này của Huy Cận lại bắt đầu bằng một chữ tưởng như không hàm chứa một lượng thơ ca nào, chữ củi. Chữ ấy lại được nhà thơ nhấn mạnh qua một phép đảo từ củi một cành khô. Nhưng phải là chữ củi và phải là phép đảo từ thì nhà thơ mới có thể nói ra tận cùng một quan niệm, một triết lý nhân sinh. Chữ ấy hay không chỉ vì nó đem lại cho thơ cái chất mà Xuân Diệu gọi là hiện thực sống sít, làm nên một trong những phong cách thơ mới.

Hình ảnh củi không chỉ nói về một thanh gỗ đã chết mà còn thực sự toát lên vẻ tầm thường. Nhưng đó lại là hình ảnh khó có gì thích hợp hơn để nhà thơ biểu hiện cảm quan của mình về sự nhỏ nhoi, vô nghĩa, đơn côi của sự sống một kiếp người trước vũ trụ, thiên nhiên vô tận. Ý nghĩa ấy dường như thấm vào trong từng chữ một của dòng thơ. Chữ một gợi lên số ít, chữ cành làm nên cảm giác nhỏ bé. Và như thế, con người dường như đang lạc lối, bơ vơ, ngơ ngác trước những dòng nước của con sông lớn ở trong hiện thực, cũng là trước con sông của nỗi buồn ở lòng người. Nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, cô đơn của một kiếp người, khác hoàn toàn với nỗi buồn của Xuân Diệu trong Đây mùa thu tới.

Đến khổ thơ thứ hai thì không gian đã không còn chỉ giới hạn trong phạm vi một mặt sông.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang giờ đây đã có thêm hình ảnh những chiếc cồn của những làng xóm ở bên sông. Vì thế hai câu thơ đầu phảng phất cảm giác man mác, nhẹ nhàng mà sâu kín về một quê hương. Huy Cận đã vô tình phát ra một cảnh sắc rất quen thuộc về một miền quê nước Việt: bờ sông hoặc giữa lòng sông có những cồn đất nhỏ, xa xa ven sông có những âm thanh xao xác của một xóm làng. Nhưng đó không phải là tất cả ý nghĩa của câu thơ. Không thể không chú ý rằng Huy Cận muốn những chiếc cồn trong thơ phải là cồn nhỏ và phải thưa thớt, lơ thơ. Cồn phải vậy để mặt sông càng trở nên rộng lớn. Gió thì đìu hiu càng làm cho dòng tràng giang thêm tĩnh lặng. Và Huy Cận cũng đã từng nói hai chữ đìu hiu ấy đã được mượn trong hai chữ của Chinh phụ ngâm:

           “Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.”

Một ngọn gió thổi đìu hiu ở nơi đã từng là bãi chiến trường đẫm máu, mối liên tưởng ấy làm ngọn gió trên sông của nhà thơ lại càng thêm buồn bã, hắt hiu.

Câu thơ thứ ba đã vang lên âm thanh của sự sống, nhưng âm thanh ấy cũng nhỏ nhoi, yếu ớt, cô quạnh.

“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Cảm giác ấy dường như thấm vào từng chữ một trong câu. Câu thơ làm gợi nhớ đến một phiên chợ chiều đã vãn của một làng xa. Cảm giác đến với nhà thơ và người đọc thơ thông qua một giác quan mơ hồ - thính giác, mà không phải qua hình ảnh. Sự mơ hồ ấy lại được nhân lên qua chữ đâu ở đầu câu, càng khiến cho âm thanh ấy như có như không, như hư như thực. Nhưng thực nhất vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.

Đến câu thơ thứ ba thì không gian được mở ra theo một chiều khác, chiều cao qua hình ảnh của nắng và bầu trời:

“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót”

Hai hình ảnh ấy cũng được đặt trong những chuyển động trái chiều - lên và xuống, trong cảm giác về một sự chia rẽ. Nắng xuống và trời lên, để lại một khoảng trống thăm thẳm mở ra, làm nên cảm giác mà Huy Cận đã diễn tả bằng một sự kết hợp từ độc đáo - sâu chót vót. Cụm từ này tạo cảm giác thăm thẳm về bầu trời và mặt nước. Không chỉ thế, phải có chữ sâu để không gian được nhuộm trong gam màu, gam cảm xúc buồn, trầm lắng.

Và khổ thơ thứ hai của bài thơ được khép lại trong một câu thơ gần nhất với câu đề từ khi ở đây lại xuất hiện hình ảnh của sông dài, trời rộng.

"Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"

Nhưng bên cạnh hình ảnh ấy, Huy Cận đã đặt bên cạnh một hình ảnh bến cô liêu. Bến ấy cũng đại diện cho con người, cho sự sống vì sông sẽ không có nơi nào là bến nếu không có sinh hoạt của con người nơi bến ấy. Vì vậy hình ảnh bến cô liêu với âm hưởng man mác của hai chữ cô liêu ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng.

Chúng ta bắt gặp một sự biến chuyển ở đầu khổ ba:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Hình như có cái gì đông đúc hơn lên, sự chuyển động dường như cũng đã nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Chúng ta nhận ra điều ấy qua từ dạt ngay ở câu thơ đầu tiên. Cảm giác đông đúc cũng thể hiện khá rõ trong ba chữ hàng nối hàng. Nhưng sự đông đúc ở đây lại chỉ là của những cánh bèo, hình ảnh từ lâu đã tượng trưng cho những kiếp phù sinh, cho cuộc sống không ý nghĩa.

Hình ảnh bèo dạt ấy cũng đã từ lâu dùng để nói về số phận của những kiếp người không có khả năng tự làm chủ cuộc đời mình. Và cảm giác vô định ấy được Huy Cận nhấn thêm một lần nữa bằng hai chữ về đâu. Nhưng câu thơ thứ nhất không chỉ là hình ảnh của những kiếp người vô định mà từng hàng bèo trôi dạt ấy dường như còn để tăng thêm cảm giác trống không ở những câu sau. Bởi người đọc sẽ có cảm tưởng khi bèo đã dạt hết rồi, nhìn lại mặt tràng giang, con người sẽ cảm thấy hoàn toàn trơ trọi với những chữ không nối tiếp nhau cứ dội lên mãi trong câu thứ hai và thứ ba:

“Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật”

Chữ không đò được hiệp âm với chữ mênh mông ở trước, chữ không cầu lại được láy âm với câu trên, đặt ở ngay đầu câu, khiến cho cảm giác trơ trọi thể hiện rõ nhất ở khổ thứ ba này. Không có con đò đậu, không có cả một chiếc cầu tĩnh lặng, vô tri. Không có cả một chút bóng dáng con người mà thông thường người ta có thể mường tượng ra qua hình ảnh con đò. Như vậy hình ảnh đò được đặt trước vì động hơn. Nhưng đến chữ chút niềm thân mật thì hình ảnh con đò và cây cầu không chỉ là những hình ảnh thực mà còn là cảm giác về cuộc đời vắng tình người. Cuộc đời quá mênh mông, một chút niềm thân mật để nối hai bờ cũng không thể nào tìm ra, dù thân mật đã là mức độ tình cảm thấp nhất trong những mức độ tình cảm.

Và cảm giác của nhà thơ lại trở về với chiều dài và chiều rộng trong câu đề từ, khi nhà thơ viết câu thơ cuối:

“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Cảm giác về không gặp lại ở lặng lẽ, không hình, không cả tiếng. Câu thơ gợi cho người đọc cảm nhận về dòng chảy qua hết bờ xanh lại đến bãi vàng, nhưng tuyệt đối âm thầm. Chúng ta lại nhận ra thêm ở đây một nỗi buồn sông nước.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Có thể nói rằng đây là khổ thơ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi ra liên tưởng về một câu thơ Đường. Cũng không có khổ thơ nào trong Tràng giang lại vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh trời chiều trên sông nước rõ ràng và gợi cảm như ở khổ bốn này.

Câu thơ thứ nhất đem đến cho ta cảm giác của một thiên nhiên vừa quen thuộc lại vừa lớn lao, kì vĩ:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”

Chỉ bảy chữ thôi mà câu thơ đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh mà ở đó những làn mây dường như được đùn, đẩy từ nơi mà bầu trời tiếp liền cùng mặt nước, cứ chất ngất mãi lên phía của trời cao thành hình giống như ngọn núi, nhưng lại là núi bạc. Những đám mây kia đang phản quang những tia nắng của trời chiều, nhờ vậy mà ánh lên, lóa lên, hình thành một khoảng không gian lớn rộng, gợi nên cảm giác trong sáng hiếm có ở bài thơ.

Vẫn nhìn lên bầu trời ấy, ở hai câu tiếp theo, nhà thơ điểm lên bức tranh bầu trời trên dòng tràng giang hình ảnh một cánh chim, một hình ảnh rất đặc trưng cho buổi chiều tà.

“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”

Nhưng cánh chim ấy không khỏi làm cho những người yêu thơ nhớ đến một câu thơ của Vương Bột:

“Lạc hà dữ cô lộ tề phi”

(tạm dịch nghĩa: ráng chiều đang sa xuống với con cò lẻ loi cùng bay).

Song cánh chim chiều trong thơ Huy Cận không bình thản như thế thì nhà thơ nói đến chim nghiêng cánh nhỏ. Chi tiết ấy đủ làm người đọc nhận ra bóng chiều đang buông xuống. Bóng chiều vốn vô hình dường như giờ đây có thể được nhìn thấy như trong cảm giác về một vật thể hữu hình. Nhà thơ đã hữu hình hóa cái vô hình. Và như vậy chỉ bằng hai câu mà nhà thơ đem lại cho người đọc những xúc cảm thân thương, quen thuộc của quê hương, đất nước, để rồi từ cảnh quê trong hai câu đầu mà nói đến tình quê, đến nỗi nhớ quê nhà trong hai câu thơ cuối. Nỗi nhớ mênh mông như là những làn sóng đang dợn trên mặt sông và trải ra theo con nước về phía xa vời.

“Lòng quê dợn dợn vời con nước”

Vời được hiểu theo nghĩa là trông mãi về phía xa. Vì vậy ở câu thơ thứ ba này, nhà thơ đang nhìn mãi ra xa, tấm lòng cũng cứ lan theo mặt nước ra xa, và cũng rung rinh theo dòng nước như thế. Câu thơ đã mượn hình ảnh sóng nước tràng giang mà nói về nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy sâu nặng, thường trực trong lòng nhân vật trữ tình mà không cần được gợi ra bằng một làn khói hoàng hôn nào như trong thơ Thôi Hiệu:

“Yên ba giang thượng sử nhân sầu”

(Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

Và như thế, nỗi nhớ, tình cảm quê hương cứ lai láng chảy trên khắp bề mặt của khổ thơ cuối cùng.

Không chỉ vậy, người đọc còn có thể nhận ra khổ thơ thứ tư là khổ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi về một tứ Đường thi quen thuộc. Chính Huy Cận nhận rằng chữ "đùn" của câu thơ thứ nhất là ông học từ bản dịch Thu hứng của Nguyễn Công Trứ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Còn câu thơ thứ hai lại được viết dưới ảnh hưởng của những câu thơ Vương Bột:

“Lạc hà dữ cô lộ tề phi”

Và hai câu thơ cuối cùng không khỏi làm người đọc nghĩ đến hai câu trong Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu):

“Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Điều đó có nghĩa là đến khổ thơ cuối cùng này, nỗi buồn của thi nhân không chỉ được giăng ra trên các chiều của không gian như ba khổ trước đó, mà nỗi buồn ấy còn được trải dài dằng dặc trên chiều của thời gian. Bởi vì mỗi câu thơ trong khổ đều được neo đậu vào những nỗi buồn dường như vĩnh hằng trong những câu thơ đã được viết ra nghìn năm trước đó. Và nhờ có khổ thơ này mà mối sầu của Tràng giang không chỉ là nỗi sầu vạn lý mà còn là mối sầu vạn kỉ. Cảm giác về một chiếc linh hồn nhỏ mang thiên cổ sầu (Huy Cận) được thể hiện rõ ở khổ thơ này hơn bất kì khổ thơ nào khác. Và như thế, nỗi buồn vũ trụ càng trở nên hoàn chỉnh hơn, nỗi khắc khoải không gian càng đầy đủ hơn.

Kết thúc khổ thơ, nỗi buồn đầy đủ và trọn vẹn được mở ra trên ba chiều không gian và cả chiều thời gian, khiến cho Tràng giang càng thêm đậm đà phong vị Đường thi, hương vị thơ cổ điển ở ngay khổ cuối. Tuy nhiên không vì thế mà có thể coi Tràng giang giống như những vần thơ cổ điển. Huy Cận vẫn cứ hiện diện trong bài thơ như một nhà thơ mới, có thể nhận ra được từ cảm giác bơ vơ, bé nhỏ, một tâm trạng rất phổ biến của một thời đại thi ca. Bởi thế cánh chim chiều của Huy Cận mới yếu ớt, đáng thương đến thế, bởi đôi cánh nhỏ nhoi kia không đỡ nổi cả bóng chiều nhẹ nhàng, bảng lảng đến phải chao nghiêng. Nó khác nhiều với cánh cò bình thản trong thơ Vương Bột.

Chất thơ mới ấy cũng thể hiện trong những rung động tinh tế khó nắm bắt trong cách nói dợn dợn, làm nên cảm giác mơ hồ, lung linh không rõ rệt. Thêm vào đó, nhà thơ còn từ chối nguyên tắc tức cảnh sinh tình vốn đã là khuôn mẫu trong thơ cổ. Tình không cần phải được gợi ra từ khói hoàng hôn. Và với tất cả những lý do trên, khổ thơ cuối cùng của Tràng giang đã đạt đến những thành công có ý nghĩa về cả hai phương diện nội dung cảm xúc lẫn hình thức văn chương.

Bài tham khảo Mẫu 3

Thiên nhiên là đề tài muôn thuở gợi cảm hứng sáng tác thơ ca cho các thi nhân, cũng giống như bao nhà thơ trung đại hay các nhà thơ mới khác Huy Cận cũng tả cảnh thiên nhiên nhưng đó không phải là thiên nhiên giàu sức sống, mơn mởn như trong “Vội vàng” của Xuân Diệu mà trong bài thơ “Tràng giang” đó là khung cảnh bao la, rộng lớn của sông nước mây trời. Bức tranh đó tuy đẹp mà buồn quạnh vắng, cô liêu. Bức tranh vừa mang nét đẹp cổ điển và hiện đại ẩn đằng sau đó là nỗi buồn sâu thẳm và tình yêu quê hương đất nước thầm kín của thi sĩ Huy Cận.

Ngay trong nhan đề “Tràng giang” đã gợi ra cảnh sông nước mênh mông, khi nhà thơ đứng trên bến Chèm sông Hồng quan sát cảnh vật xung quanh mà sáng tác, dù đó là một con sông cụ thể có tên gọi nhưng thi sĩ dùng cách nói khác để gợi ra hình ảnh dòng sông trải dài đến vô tận. Lời đề từ thể hiện cảm xúc chủ đạo của tác phẩm là nỗi buồn, nỗi nhớ xuyên suốt toàn bài của thi sĩ cô đơn trước cảnh “trời rộng nhớ sông dài”.

Trước tiên ta thấy thiên nhiên ở đây mang dáng dấp cổ kính trong thơ Đường. Thi sĩ cũng tả cảnh sông nước, mây trời có sử dụng các hình ảnh thuyền, bèo, cánh chim…đó đều là các thi liệu trong thơ ca cổ được các nhà thơ trung đại dùng để miêu tả cảnh chiều tà với nỗi buồn nỗi nhớ quê hương của những người khách lữ thứ xa quê.

Nhưng thiên nhiên ấy cũng mang đậm chất chất dân tộc rất gần gũi với cuộc sống người dân Việt. Dù thi sĩ miêu tả cảnh sông nước của con sông Hồng cụ thể nhưng lại không gọi tên mà chỉ tả cảnh vật để cho ta thấy đó là bất kì con sông nào của đất Việt đều hiện lên rất quen thuộc của dòng sông sóng gợn, thuyền xuôi mái chèo hay bèo dạt trên sông và tiếng chợ chiều xa xa... Tuy nhiên thiên nhiên trong bài thơ cũng mang những dấu ấn đặc sắc riêng biệt bởi hình ảnh: “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng” nó không phải là từng cánh bèo, khóm bèo mà là hàng nối hàng đang bị trôi dạt bởi dòng nước rất nhiều. Thiên nhiên trong cái nhìn của thi nhân thật khác biệt vừa có nét cổ kính trang nhã trong thơ xưa, vừa hiện đại mang đậm phong vị dân tộc.

Không gian trong bức tranh thiên nhiên là sự mênh mông, bao la đến rợn ngợp của “Nắng xuống trời lên sâu chót vót/ Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Nắng với trời sẽ chẳng thể tách rời ấy vậy mà “Nắng xuống, trời lên” tạo nên một khoảng cách sâu chót vót. Người ta nói cao chót vót còn với thi nhân nó lại là sâu bởi nắng càng xuống khuất bóng nhường hoàng hôn thì trời càng cao tạo nên độ sâu thăm thẳm. Dường như nhà thơ đang đứng từ dưới nhìn lên nên mới có thể cảm nhận được điều đó. Trải rộng ra là “Mênh mông không một chuyến đò ngang/ Không cầu gợi chút niềm thân mật”. Thi nhân muốn có gì đó để bấu víu lấy cảm xúc cho đỡ trơ trọi nhưng đổi lại chỉ là một chữ không được điệp lại hai lần ở câu trên và câu dưới chỉ còn biết lặng lẽ với bờ xanh tiếp bãi vàng. Mọi thứ trở nên tĩnh lặng vô cùng, dường như sự sống ở đây chỉ có một mình nhà thơ với cảnh vật đẹp mà cô liêu, ảm đạm.

Giữa không gian mênh mông, vời vợi ấy các sự vật hiện lên với sự nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng. Đó là hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Thiên nhiên không có sức sống nó chỉ là một cành củi khô từ rừng sâu xa thẳm lạc giữa chốn sông nước. Cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ thật độc đáo nhấn mạnh đặc điểm đối tượng. Câu thơ khiến cho ta nhớ tới hình ảnh chiếc bách trong thơ Hồ Xuân Hương “Chiếc bách buồn vì thân phận nổi nênh/ Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh” gợi đến tâm trạng cô đơn trước thiên nhiên và cuộc đời của tác giả. Đó là cánh chim nghiêng trong bóng chiều xa giữa khung nền “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều cùng sà xuống mặt nước tràng giang hay bóng chiều đè nặng lên cánh chim khiến nó phải chao nghiêng đôi cánh. Cánh chim nhỏ dưới bóng chiều buông xuống mang nặng tư tưởng tác giả, ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé bị bão táp cuộc đời xô đẩy, ngả nghiêng ẩn dụ cho cái tôi cá nhân phiền não của thi nhân trải nỗi buồn ra khắp không gian.

Sự chuyển động của cảnh vật cũng rất nhẹ nhàng như có như không của “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” hay gió đìu hiu thổi trên cồn cỏ. Sóng gợn nhẹ trên mặt nước ta đã từng bắt gặp trong câu thơ Nguyễn Khuyến “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí” thật bình lặng với nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Cùng với đó là “Con thuyền xuôi mái nước song song/ Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Hai sự vật thuyền và nước đi liền với nhau nhưng trong cái nhìn của thi nhân dường như có sự tan tác, li biệt. Chi tiết “xuôi mái” cho thấy sự phó mặc, buông xuôi. Thuyền và nước thường phải có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng ở đây ta thấy nó như rời rạc, tách nhau ra bởi “thuyền xuôi” còn “mái nước song song”, thuyền và nước lại ngược hướng với nhau “thuyền về nước lại” tạo ra sự ngăn cách. Nỗi sầu của nước tan chảy ra trăm ngả trên sông. Nỗi sầu ấy cũng là nỗi sầu nhân thế của thi nhân mang tâm trạng chán nản, buồn tủi. Hình ảnh con thuyền bơ vơ, cô độc là một thi liệu quen thuộc đã từng xuất hiện trong thơ xưa như: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến trường giang thiên tế lưu” (Bóng buồm đã khuất bầu không/ Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời).

Ẩn đằng sau bức tranh thiên nhiên đẹp mà buồn ấy là tâm trạng của thi nhân “Lòng quê dợn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” được gợi từ hai câu thơ trong bài “Lầu Hoàng Hạc” của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” nếu tiền nhân đời Đường bên Trung Hoa nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê hương thì Huy Cận thật sáng tạo khi “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Đó còn là nỗi buồn của tầng lớp trí thức lúc bấy giờ khi đứng trước hoàn cảnh nước mất nhà tan của dân tộc cho thấy tình yêu quê hương đất nước thầm kín được thể hiện trong thơ Huy Cận.

Với những nét đặc sắc nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại trong lối thơ bảy chữ niêm luật chặt chẽ như thơ Đường, dồi dào nhạc điệu đã khiến cho bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Tràng giang” hiện lên thật đẹp mà buồn ảm đạm mang nặng tư tưởng của tác giả.


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 11 - Kết nối tri thức - Xem ngay

Tham Gia Group Dành Cho 2K8 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí