Tư tưởng về văn hoá và đạo đức


Hồ Chí Minh hiểu văn hoá theo ba nghĩa: Theo nghĩa hẹp nhất, văn hoá là dân trí, trình độ học vấn của dân cư; theo nghĩa hẹp, văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, thuộc lĩnh vực tinh thần, có quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị

a)  Về văn hóa

-  Hồ Chí Minh được UNESCO ghi nhận là nhà văn hoá kiệt xuất với tư cách là chủ thể sáng tạo nên những giá trị văn hoá lớn.

Hồ Chí Minh hiểu văn hoá theo ba nghĩa: Theo nghĩa hẹp nhất, văn hoá là dân trí, trình độ học vấn của dân cư; theo nghĩa hẹp, văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, thuộc lĩnh vực tinh thần, có quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị; theo nghĩa rộng nhất, văn hoá là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần, do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử vì sự tiến bộ chung.

Hồ Chí Minh nêu định nghĩa về văn hoá: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn"1.

-  Hồ Chí Minh xác định rất rõ vai trò của văn hoá, xem văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Vai trò của văn hoá chủ yếu được thể hiện qua các chức năng của nó. Chức năng của văn hoá mới rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh chỉ ra ba chức năng chủ yếu của nền văn hoá mới.

Chức năng bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp. Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn, trước hết là lý tưởng cách mạng cao cả độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tình cảm cao đẹp là lòng yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức.

Nâng cao dân trí: Dần dần, từng bước một, từ thấp đến cao: chống giặc dốt, làm cho mọi người dân biết đọc, biết viết, học tập chuyên môn nghiệp

Vụ, khoa học - kỹ thuật, hiểu biết thực tiễn Việt Nam và thế giới, hình thành đội ngũ trí thức cách mạng tiêu biểu cho trí tuệ dân tộc.

Bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, không ngừng hoàn thiện bản thân mình. Văn hoá góp phần hình thành các phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, phẩm chất chuyên môn, nghiệp vụ; văn hoá giúp con người phân biệt thật - giả, đúng - sai, thiện - ác, từ đó hướng con người vươn tới các giá trị làm người phổ biến: chân - thiện - mỹ.

Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống các luận điểm về xây dựng nền văn hoá  Việt Nam. Người quan niệm xây dựng văn hoá là một bộ phận hợp thành không thể thiếu được của công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, đã hoạch định một chương trình tổng thể xây dựng văn hoá. Theo Hồ Chí Minh, xây dựng nền văn hoá mới phải trên cơ sở lấy dân tộc làm gốc, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời phải biết tiếp thu một cách có chọn lọc tinh hoa văn hoá của nhân loại.

b) Về đạo đức

-   Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức:

+ Vị trí, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội và đời sống cá nhân. Người cho rằng đạo đức là gốc, là nền tảng của con người, của xã hội giống như gốc của cây, nguồn của sông suối. Bởi vì, có đạo đức cách mạng trong sáng mới làm được những việc cao cả, vẻ vang; đạo đức là vũ khí sắc bén trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; đạo đức giúp cho con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh của mình trong mọi hoàn cảnh; đạo đức là tiêu chuẩn đánh giá sự cao thượng của con người; đạo đức cùng với tài năng có vai trò quan trọng trong đời sống mỗi người.

+ Các chuẩn mực đạo đức cách mạng cơ bản:

Trung với nước, hiếu với dân: Đây là chuẩn mực đạo đức nền tảng, quy định hành vi ứng xử của cá nhân với cộng đồng. Trung với nước là phải yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội; trung thành với con đường mà dân tộc đã lựa chọn; có trách nhiệm xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước. Hiếu với dân là phải thương dân, tin dân, lấy dân làm gốc; quan tâm, chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân; đấu tranh để giải phóng nhân dân, để dân trở thành người chủ và làm chủ đất nước.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: Đây là chuẩn mực đạo đức trung tâm, điều chỉnh hành vi ứng xử hàng ngày của con người. Hồ Chí Minh giải thích rõ:

Cần: cần cù, siêng năng, chăm chỉ, dẻo dai; biết sắp xếp, phân công lao động hợp lý; lao động với năng suất cao, chất lượng tốt, hiệu quả cao.

Kiệm: Là tiết kiệm, không lãng phí, không xa xỉ; tiết kiệm của mình và tiết kiệm của công; mình tiết kiệm và làm cho người khác tiết kiệm; tiết kiệm toàn diện: từ tài nguyên, vật liệu, tiền tài của cải, thời gian đến sức lao động.

Liêm: Liêm khiết, trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng.

Chính: Không tà, thẳng thắn, đúng đắn, trung thực, thật thà.

Chí công vô tư: Đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết; có thể hy sinh lợi ích riêng vì lợi ích chung.

Hồ Chí Minh chỉ rõ các tiêu chuẩn đạo đức cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và là những đức tính tốt cần thiết của mỗi con người. Nó là thước đo bản chất "người" của một con người.

Yêu thương con người: Yêu thương tất cả mọi người, nhất là những người lao động nghèo khổ, bị bóc lột, áp bức và những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Yêu thương con người là phải quan tâm, chăm sóc mọi mặt đời sống con người và tạo điều kiện cho con người phát huy hết tài năng, sáng tạo của mình; phải hành động, chiến đấu để bảo vệ lương tri, phẩm giá làm người, giải phóng con người một cách triệt để.

Tinh thần quốc tế trong sáng, bao gồm: Tôn trọng, thương yêu, giúp đỡ, ủng hộ tất cả các dân tộc chống áp bức, bất công, chống sự thù hằn, phân biệt chủng tộc; xây dựng khối đại đoàn kết quốc tế.

+ Những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng: Nói đi đôi với làm, phải nêu gương đạo đức; Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi; Tu dưỡng đạo đức suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng.

- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:

Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.

Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người.

Bổn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.

Năm là, học tấm gương, học suốt đời, học quần chúng, học từ trong thực tiễn, càng tiến lên càng phải học.


Bình chọn:
3.7 trên 6 phiếu
  • Tư tưởng về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân

    Nhà nước của dân là Nhà nước trong đó dân là chủ; dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Nước ta là nước dân chủ; bao nhiêu quyền hạn là của dân; quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.

  • Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc

    Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là tư tưởng cơ bản nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành sức mạnh to lớn trong đấu tranh cách mạng để giành thắng lợi:

  • Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

    Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam: Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.

  • Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

    Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh có cội nguồn sâu xa từ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam; tiếp thu lý luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là lý luận cách mạng không ngừng của c.Mác và V.I. Lênin