Soạn bài Thực hành đọc Cây diêm cuối cùng SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết>
Cách kết hợp yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình trong bài tản văn. Tính chất lạ lùng có màu sắc hư cấu của câu chuyện và cách thể hiện cảm xúc, suy tư của tác giả.
Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 11 tất cả các môn - Kết nối tri thức
Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh
Nội dung chính
Cây diêm cuối cùng khắc họa hình ảnh nhân vật “tôi” trong cuộc chiến đấu ở đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn, câu chuyện cảm động cây diêm cuối cùng giữa hai nhân vật kẻ thù sau đó và những suy nghĩ về tình cảm con người trong cuộc sống |
Câu 1
Câu 1 (trang 60, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Cách kết hợp yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình trong bài tản văn.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ bài thơ để trả lời.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Cách kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình trong bài tản văn độc đáo ở chỗ bên cạnh những chi tiết miêu tả sự việc diễn ra của nhân vật, tác giả luôn đan xen những lời nói độc thoại, những câu văn diễn tả tình cảm, cảm xúc của nhân vật trong truyện. Bởi nhân vật đó không phải một người vô cảm, anh sợ sệt nhưng dũng cảm và cũng vị tha. Yếu tố trữ tình đã tạo nên điểm nhấn cho tác phẩm bằng những lời độc thoại, tâm tư của nhân vật.
Tản văn tự sự vẫn lấy sự kiện, nhân vật, cảnh vật làm nội dung biểu đạt chủ yếu, lấy sự trần thuật miêu tả làm phương thức biểu đạt chủ yếu. Nó chú trọng kể việc, ghi người, tả cảnh nhưng cũng không giống như kể việc ghi người tả cảnh trong tiểu thuyết. Kể chuyện trong tản văn chỉ là trần thuật một số phiến đoạn của sự kiện; ghi người chỉ là ghi một số mặt quan trọng của nhân vật, tả cảnh chỉ là tả một số phương diện nào đó của cảnh vật; hơn nữa, những sự việc, con người, cảnh vật này đại đa số chỉ là những sự việc, con người, cảnh vật mà tác giả đã tiếp xúc qua, tác giả thường lấy nhân xưng ngôi thứ nhất “Tôi” làm sợi dây liên kết những phiến đoạn của sự kiện, những mặt nào đó của nhân vật, phương diện nào đó của cảnh vật; thủ pháp miêu tả thường là vận dụng lược thuật và phác họa, ngôn ngữ ít ỏi cốt chỉ vẽ ra tình trạng của sự kiện, thần thái của nhân vật, đặc sắc của cảnh vật. Tản văn tự sự chia thành: tản văn kí sự, tản văn ghi người, tản văn tả cảnh.
Tản văn trữ tình là tản văn lấy sự bộc lộ tư tưởng, tình cảm của tác giả làm chủ đạo, điều căn bản của nó là bộc lộ tình cảm. Trữ tình ở đây đã chỉ ra nội dung chủ yếu của nó là tình cảm, đồng thời cũng chỉ ra thủ pháp biểu hiện chủ yếu của nó là trữ tình. “Tình” trong tản văn trữ tình chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Tản văn trữ tình ưu tú phải lấy “tình” làm sợi dây sắp đặt kết cấu, tính chủ quan của nó đặc biệt mãnh liệt. Ở phương diện này, tản văn trữ tình và thơ trữ tình có điểm giống nhau, nhưng tản văn trữ tình khác với thơ trữ tình ở chỗ không trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mà phần nhiều là sự việc sinh tình cảm, mượn cảnh nói tình, lấy vật để nói chí, “tình” của nó phải có cái dựa vào, tình thấm vào trong cảnh và vật rồi bộc lộ ra, tình cảm chủ quan và cảnh vật khách quan nhập vào làm một. Ngoài ra tình cảm trong tản văn trữ tình không tập trung như thơ trữ tình, nó thường là sự trải rộng của tư tưởng tình cảm trong một tổ chức, sắp xếp hết sức công phu của tài liệu. Ngôn ngữ tản văn khác ngôn ngữ thơ trữ tình là điều đã quá rõ ràng.
Câu 2
Câu 2 (trang 60, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Tính chất lạ lùng có màu sắc hư cấu của câu chuyện và cách thể hiện cảm xúc, suy tư của tác giả.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ câu chuyện để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Câu chuyện có rất nhiều điểm hư cấu nhưng cái mà người đọc chú ý ở đó lại là tình cảm của nhân vật trong truyện. Trong bão tuyết dữ dội, bão bùng của thiên nhiên, con người có thể vượt qua nó và sống sót. Hay việc gặp kẻ thù trong hoàn cảnh éo le ấy mà không bị giết cũng là một sự hư cấu bởi trong hoàn cảnh đó, người kia có thể hoàn toàn giết nhân vật tôi bởi anh chưa xác định được thù hay bạn.
Nhưng đó chỉ là một yếu tố góp phần làm nên thành công của câu chuyện, thành công lớn nhất của nó phải kể đến là sự thể hiện tình cảm, cảm xúc quá đỗi chân thật của tác giả. Mọi sự việc diễn ra quá nhanh nhưng nó đều được tái hiện lại trong suy nghĩ chậm của tác giả khiến anh cảm thấy bản thân mình chưa kịp phản ứng lại với tình huống của hiện tại bởi vậy sau mỗi hành động nhân vật tôi sẽ ngẫm nghĩ về hành động đã xảy ra. Đây có lẽ là một sự đặc sắc của câu chuyện này.
Nội dung chính của văn bản là: Các tư thế của những người đọc sách.
Tác giả đã sử dụng những biện pháp tu từ như:
- Điệp từ (đọc, người đọc)
- Liệt kê
+ Một là người đọc…
+ Hai là, người đọc…
+ Ba là, người đọc…
→ Tác dụng: Nhấn mạnh vào các tư thế đọc văn và qua đó, làm cho đoạn văn trở nên logic và chặt chẽ, sinh động hơn.
- Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 59 SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết
- Soạn bài Nói và nghe Thảo luận, tranh luận về một vấn đề trong đời sống SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết
- Soạn bài Viết văn bản thuyết minh về một hiện tượng xã hội SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 51 SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết
- Soạn bài Cà Mau quê xứ SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 11 - Kết nối tri thức - Xem ngay