Tóm tắt, bố cục Văn 11 Kết nối tri thức hay nhất Tóm tắt, bố cục, nội dung chính các tác phẩm SGK Văn 11..

Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Bài ca ngất ngưởng


Tóm tắt, bố cục, nội dung chính, văn bản Bài ca ngất ngưởng giúp học sinh soạn bài dễ dàng, chính xác.


Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Tóm tắt

Mẫu 1

Bài thơ thể hiện rất rõ thái độ sống của Nguyễn Công Trứ giai đoạn cuối đời, sau những trải nghiệm đắng cay của cuộc sống quan trường. Đó là thái độ coi thường danh lợi, vượt lên thói thường để sống cuộc sống tự do tự tại. Giữa cái xã hội mà mọi cá tính đều bị thủ tiêu thì cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ chẳng những bộc lộ một bản lĩnh cứng cỏi, sự thức tỉnh ý thức cá nhân mà còn thể hiện rõ một nhân sinh quan tiến bộ hiện đại.

Mẫu 2

Nguyễn Công Trứ với lối sống ngất ngưởng, tự nhận trong vũ trụ mọi việc đều là phận sự của ta. Là một người văn võ toàn tài. Từ tài thao lược đến tài văn chương, từng giữ nhiều chức lớn ở triều đình. Ngất ngưởng cả khi còn đương chức ở triều đình và khi đã về hưu. Khi về hưu cưỡi bò vàng đeo đạc ngựa đi khắp chốn, lên núi lại mang theo cô hầu, coi việc được mất khen chê chỉ như ngọn gió đông mà thôi.

Mẫu 3

Nguyễn Công Trứ với lối sống ngất ngưởng, tự nhận trong vũ trụ mọi việc đều là phận sự của ta. Là một người văn võ toàn tài. Ngất ngưởng cả khi còn đương chức ở triều đình và khi đã về hưu.



Xem thêm

Mẫu 4

Bài thơ phác họa chân dung Nguyễn Công Trứ như một kẻ sĩ ý thức sâu sắc về giá trị bản thân và luôn sống theo phong thái khác biệt. Tác giả hồi tưởng chặng đường lập công nơi triều chính với niềm tự hào chính đáng, thể hiện khí phách của người làm chủ tài năng và sự nghiệp. Khi rời quan trường, ông vẫn giữ tinh thần tự do, cư xử theo cách riêng, thản nhiên vượt khỏi những khuôn phép gò bó của xã hội phong kiến. Hình ảnh cưỡi bò đi chơi hay đưa ca kỹ theo mình trở thành biểu tượng cho một lối sống phóng khoáng, khẳng định cái tôi cá nhân mạnh mẽ. Toàn bài tôn vinh tư thế ngẩng cao đầu của Nguyễn Công Trứ, người dám sống thật với mình, xem trọng nhân cách và tài năng hơn mọi điều tiếng.

Mẫu 5

Bài thơ dựng lại chân dung Nguyễn Công Trứ như một người luôn sống theo chuẩn mực riêng. Ông ý thức mạnh mẽ về hành trạng công danh và tin vào giá trị của sự nghiệp mình đã dựng lập. Khi còn ở chốn quan trường, ông hành xử đường hoàng, không để danh lợi làm lu mờ nhân cách. Tinh thần tự chủ ấy trở thành nền tảng cho phong thái ngất ngưởng về sau. Rời bỏ quyền lực, ông chọn đời sống nhàn tản mà vẫn không đánh mất khí phách. Việc cưỡi bò đi chơi hay đưa theo ca kỹ thể hiện thái độ thách thức những phép tắc gò bó. Ông muốn khẳng định rằng lối sống cao ngạo ấy không phải càn rỡ mà là tuyên ngôn về tự do tinh thần. Cái tôi cá nhân được đẩy lên vị trí trung tâm. Bài thơ qua đó tôn vinh phẩm chất của người dám khác biệt. Nguyễn Công Trứ không hòa mình vào số đông chỉ để được yên ổn. Ông chọn cách sống khiến người đời phải nhìn lại. Tác phẩm trở thành bản tuyên ngôn sinh động cho nhân cách và bản lĩnh của một kẻ sĩ tự do.

Mẫu 6

Bài ca cho thấy Nguyễn Công Trứ là người luôn ý thức sâu sắc về tiếng nói của bản thân. Trong ký ức về chặng đường làm quan, ông xem công danh như mục tiêu để chứng tỏ tài năng. Khi đạt được nó, ông không tỏ ra tự mãn mà xem đó là phần tất yếu của tài trí. Đến lúc cáo quan, ông giữ nguyên bản tính phóng khoáng. Việc xuất hiện với những hành động khác lạ khiến người đời ngạc nhiên nhưng với ông lại là cách gìn giữ bản tính. Ông xem sự tự do tinh thần quan trọng hơn mọi phép tắc. Bởi thế khi thiên hạ coi thường lối sống ấy, ông chỉ mỉm cười bỏ qua. Bài thơ khắc họa sự độc lập từ trong suy nghĩ đến hành động. Nó thể hiện cách Nguyễn Công Trứ vượt lên sự ràng buộc của dư luận. Mỗi hình ảnh đều mang lại cảm giác về một con người tự tin. Tác phẩm khiến người đọc nhận ra giá trị của cái tôi cá nhân trong thời đại vốn coi trọng lễ nghi. Đây là tiếng nói quả quyết về nhân cách không khuất phục.

Mẫu 7

Nguyễn Công Trứ trong bài thơ hiện lên như một người làm chủ hoàn toàn cuộc đời mình. Ông nhìn lại công danh như một bước tất yếu phải thực hiện trọn vẹn khi mang danh kẻ sĩ. Sau khi trả xong món nợ ấy, ông quay về với đời sống nhàn hạ. Nhưng sự nhàn ấy không phải là sự bình lặng. Ông chọn cách sống phô bày cá tính, khác người mà không thô kệch. Việc cưỡi bò hay đưa ca kỹ đi theo chỉ như những biểu tượng cho một tâm thế tự do. Ông tỏ ra không quan tâm đến mọi phán xét. Người đời càng dè bỉu, ông càng ung dung. Bài thơ thể hiện khí chất tự tin của con người hiểu rõ giá trị bản thân. Từng câu chữ như lời khẳng định dứt khoát rằng chỉ có chính mình mới định hình được cuộc sống. Sự ngất ngưởng ở đây chính là tinh thần vượt lên khuôn khổ. Qua đó, tác phẩm gửi đến người đọc cảm hứng về một nhân cách mạnh mẽ.

Mẫu 8

Tác phẩm dựng nên một hình tượng độc đáo trong văn học trung đại. Nguyễn Công Trứ không chỉ kể về công danh mà còn đưa ra quan niệm sống của mình. Khi ở nơi quan trường, ông tập trung trả món nợ công danh bằng tài trí và ý chí. Khi về hưu, ông xem sự tự do như phần thưởng xứng đáng. Những hành động đặc biệt của ông không phải để gây chú ý mà nhằm bảo vệ sự độc lập của mình. Ông không muốn hòa tan vào đời sống tầm thường. Cái tôi mạnh mẽ khiến ông sẵn sàng sống khác biệt. Người đời không hiểu, nhưng ông không buồn giải thích. Ông tin rằng người trí thức phải tự biết cách đứng thẳng trong phong ba. Bài thơ vì thế vừa là chân dung tự họa, vừa là tuyên bố sống. Nó cho thấy sức mạnh của bản lĩnh cá nhân. Và đó chính là tinh thần ngất ngưởng.

Mẫu 9

Tác giả tái hiện lại hành trình lập thân lập nghiệp của Nguyễn Công Trứ với giọng điệu đầy tự tin. Trong những năm tháng làm quan, ông luôn hành xử chính trực. Ông xem chức tước chỉ là phương tiện để thi triển tài năng. Khi rời bỏ quan trường, ông không luyến tiếc. Sự phóng khoáng chi phối toàn bộ lựa chọn của ông. Những hình ảnh khác lạ trong sinh hoạt hằng ngày là biểu hiện của tâm hồn tự do. Ông thích được sống đúng bản tính hơn là rập khuôn theo lễ nghi. Điều làm nên sự đáng quý ở Nguyễn Công Trứ chính là sự nhất quán ấy. Ông không sống để làm vừa lòng ai. Bài thơ là minh chứng cho phẩm chất sống thẳng, sống thật. Nó giúp người đọc hiểu rằng sự độc lập đôi khi cần chút táo bạo. Tinh thần ngất ngưởng trở thành biểu tượng cho bản lĩnh trí thức.

Mẫu 10

Bài thơ là tiếng nói tự biểu hiện của một con người luôn tôn trọng cá tính. Nguyễn Công Trứ ý thức rõ mình đã trải qua đủ vinh hoa quyền lực. Khi rời bỏ vòng danh lợi, ông không vì thế mà thay đổi bản chất. Những hành động được xem là kỳ quặc lại bắt nguồn từ mong muốn khẳng định quyền tự do sống. Ông không muốn bị bó buộc bởi những thước đo khắt khe. Sự độc lập ấy thể hiện trong từng chi tiết của bài thơ. Ông không che giấu bản tính phóng túng. Người đời nhìn vào có thể cho rằng ông ngông. Nhưng ông coi đó là thái độ sống đầy kiêu hãnh. Bài thơ nhấn mạnh tinh thần tự tin đến mức thản nhiên trước mọi thị phi. Hình tượng Nguyễn Công Trứ vì vậy trở thành biểu tượng của bản lĩnh cá nhân trong xã hội đầy ràng buộc.

Mẫu 11

Hình tượng trung tâm của bài thơ là một Nguyễn Công Trứ không giống ai. Từ lúc bắt đầu con đường công danh, ông đã xác định rõ nghĩa vụ của mình. Khi hoàn tất nhiệm vụ ấy, ông quay lại với thú vui bình dị mà tự do. Những biểu hiện khác thường của ông là cách kháng cự với phép tắc nặng nề. Ông không chấp nhận lối sống phù phiếm, giả tạo. Sự ngất ngưởng chính là lựa chọn để giữ cho mình khỏi bị cuốn theo dòng đời. Cái tôi cá nhân nổi lên như một sức mạnh. Ông chấp nhận bị hiểu lầm để được là chính mình. Người đời chê cười nhưng ông chẳng màng. Bài thơ tôn vinh một tâm thế sống thẳng thắn. Qua đó, độc giả thấy được giá trị của sự tự chủ tinh thần.

Mẫu 12

Bài ca khắc họa một nhân cách đầy bản lĩnh. Nguyễn Công Trứ nhìn lại cuộc đời làm quan không phải để khoe khoang mà để nhấn mạnh rằng ông đã từng sống có trách nhiệm. Khi xong việc, ông muốn sống theo ý mình. Những hành động ngồ ngộ của ông thể hiện lòng can đảm dám phá bỏ khuôn phép. Ông xem sự tự do như giá trị cao nhất. Chính vì thế mà ông không chạy theo cách nhìn của thế gian. Ông vui với những thú chơi đơn giản. Ông giữ khoảng cách với sự khuôn sáo. Bài thơ cho thấy tinh thần dám khác biệt trong một xã hội vốn đề cao sự đồng nhất. Nguyễn Công Trứ điềm nhiên, tự tin và không hề sợ bị phán xét. Tác phẩm mang ý nghĩa khơi gợi khát vọng sống thật.

Mẫu 13

Tác phẩm tái hiện một giai đoạn đời sống vừa rực rỡ vừa tự do của Nguyễn Công Trứ. Ông kể lại chặng đường chinh chiến với sự kiêu hãnh chính đáng. Khi lui về, ông chọn cách sống thuận theo bản tâm. Những hành động gây nhiều tranh luận đều xuất phát từ ý muốn giữ vững cái tôi. Ông không để những lễ nghi đè nặng lên mình. Sự phóng túng trong sinh hoạt thể hiện thái độ coi nhẹ hình thức. Nguyễn Công Trứ tin rằng giá trị con người không nằm trong sự tuân thủ gượng ép. Ông sẵn sàng sống khác để bảo vệ lý tưởng. Bài thơ vì vậy giàu tinh thần phản kháng nhẹ nhàng. Nó vẽ nên một khí phách không thể trộn lẫn. Người đọc thấy trong đó sức mạnh nội tâm của kẻ sĩ.

Mẫu 14

Trong bài thơ, Nguyễn Công Trứ hiện lên với niềm tự tin vững bền vào giá trị bản thân. Ông nhìn lại sự nghiệp không để khoe mà để khẳng định rằng ông đã sống trọn vẹn. Khi rời chốn quan trường, ông giải phóng mình khỏi mọi ràng buộc. Những hành động kỳ lạ chỉ như minh chứng cho sự tự do ấy. Ông không màng đến ánh mắt dò xét. Người đời có thể chỉ trích nhưng ông vẫn vui với lựa chọn của mình. Cái tôi cá nhân trở thành trung tâm của toàn bài thơ. Nguyễn Công Trứ bằng giọng điệu ngông chính đáng đã đề cao phẩm chất tự lập. Tác phẩm khiến hình ảnh kẻ sĩ hiện lên thật khác biệt. Sự ngất ngưởng đã làm nên một đời sống thứ thiệt.

Mẫu 15

Bài thơ biểu hiện một lối tự họa độc đáo của Nguyễn Công Trứ khi ông biến hành trạng đời mình thành chất liệu để cất lên tiếng cười tự trào sắc lạnh. Giọng thơ mang vẻ ung dung của người từng trải, xem công danh như một cuộc dạo chơi trí tuệ, chứ không phải thứ trói buộc. Bằng việc nhắc lại sự nghiệp lẫy lừng, ông không nhằm phô trương mà để xác lập nền tảng quyền lực tinh thần cho cái tôi ngất ngưởng. Khi rời bỏ chính trường, ông càng ý thức rõ hơn quyền được sống theo bản tính. Hình ảnh cưỡi bò hay dắt theo đào nương thoát khỏi lớp vỏ kì thú bề ngoài để trở thành ẩn dụ cho một chủ thể dám phá bỏ những tầng khuôn phép cổ hủ. Ông dựng nên tư thế kẻ sĩ tự chủ, không cúi mình trước thói đời tầm thường. Bài thơ vận hành theo quỹ đạo của một tiếng nói đối lập: đối lập với sự nghiêm cẩn giả tạo, đối lập với thói quen yêu cầu trí thức phải thu mình trong lễ giáo. Mỗi câu đều làm nổi bật ý thức thẩm mỹ riêng, nơi cái độc đáo được tôn làm chuẩn mực. Nguyễn Công Trứ khẳng định rằng chỉ kẻ nào giữ được tự do nội tâm mới có thể đứng thẳng giữa những giá trị chao đảo. Vì thế, tác phẩm là bản tuyên bố về quyền làm người theo nghĩa sâu xa nhất: quyền được là chính mình.

Mẫu 16

Tác phẩm mở ra như một hình thức “tự truyện bằng thơ”, trong đó tác giả đối chiếu hai giai đoạn sống để làm nổi bật thái độ coi công danh như chiếc áo khoác tạm thời. Khi ở chốn triều đình, ông làm tròn trách nhiệm vì thấy đó là bổn phận gắn với danh vị kẻ sĩ. Đến khi rũ bỏ quan tước, ông không chút vấn vương, bởi điều ông truy cầu rốt ráo là sự tự do tinh thần chứ không phải quyền lực. Mỗi chi tiết “khác người” trong đời sống nhàn tản đều được đặt vào một hệ giá trị riêng, nơi tự do được định nghĩa bằng khả năng không để chuẩn mực chi phối cá tính. Cái ngất ngưởng, theo đó, không còn là sự lập dị hời hợt mà là kết quả của một quá trình tự thức tỉnh. Nguyễn Công Trứ ý thức rất rõ sự đơn độc của người dám đi ngược. Nhưng ông xem sự đơn độc ấy như điều kiện của phẩm giá. Bài thơ vận động theo nhịp điệu của một tinh thần tự lập, khi con người không cần sự tán thưởng để chứng minh giá trị. Chính vì vậy, âm hưởng cuối tác phẩm gợi ra tư thế hiên ngang, cho thấy một con người chỉ tuân theo quy tắc do chính mình kiến tạo.

Mẫu 17

Đọc bài thơ, ta gặp một Nguyễn Công Trứ đứng giữa giao điểm của văn hóa Nho giáo và tinh thần giải phóng cá nhân mới mẻ. Ông từng cống hiến trọn vẹn khi còn mang trọng trách, nhưng khi đã hoàn tất, ông từ chối sống theo những quy phạm khắt khe. Những hành vi được xem là “lạ lẫm” chỉ là vỏ bọc của một lập trường văn hóa: phủ nhận sự thiêng liêng hóa lễ nghi. Ông giải phóng mình khỏi sức nặng truyền thống bằng thái độ hài hước và đầy ý thức. Bài thơ vì thế không chỉ là sự phô diễn cá tính mà còn là lời chất vấn đối với hệ thống chuẩn mực xã hội: liệu con người có quyền vượt thoát khỏi những mô thức đã cũ? Nguyễn Công Trứ trả lời bằng chính đời sống của mình. Ông bước đi giữa người đời với tâm thế chủ thể tự do, không tìm kiếm sự đồng thuận. Hình tượng ấy khiến bài thơ trở thành một thông điệp triết lí: phẩm giá không nằm trong sự tuân phục mà nằm trong khả năng kiến tạo đời sống theo chiều sâu tư tưởng của chính mình. Tác phẩm mở ra một quan niệm thẩm mỹ độc đáo, nơi cái khác biệt được tôn trọng như biểu hiện của trí tuệ.

Mẫu 18

Tác phẩm triển khai cấu trúc song hành giữa hai thế giới: thế giới công danh và thế giới tự do, để từ đó làm nổi bật sức mạnh nội tâm của một con người không chấp nhận sự thuần hóa. Khi còn làm quan, ông đứng thẳng bằng tài năng và bản lĩnh, thực hiện trách nhiệm như một phần của đạo làm người. Khi lui về, ông đảo ngược trật tự giá trị của xã hội, lấy cái “lạ”, cái “không giống ai” làm cách khẳng định bản thể. Việc ông xuất hiện giữa công chúng với những hành động không theo thông lệ là sự thách thức âm thầm đối với cái nhìn quen thuộc. Giọng điệu bài thơ lúc tự trào, lúc kiêu bạc, lúc lại thong dong đến dửng dưng, tạo nên một không gian biểu cảm giàu nghịch lí. Người đọc nhận ra rằng sự ngất ngưởng chính là phong độ sống chứ không phải trò phô trương. Nó xuất phát từ niềm tin vào phẩm chất trí thức không chịu cúi mình. Tác phẩm trở thành sân khấu nơi Nguyễn Công Trứ trình diễn bản lĩnh, đồng thời bác bỏ sự giản lược moral mà xã hội thường áp đặt cho người trí thức. Đây là tiếng nói của cá nhân tự trị, đầy quyết liệt nhưng cũng giàu chất văn hóa.

Mẫu 19

Bài thơ khắc họa một Nguyễn Công Trứ đang tự kiến tạo hình ảnh mình như một “chủ thể hát về chính đời sống”. Ông không xem công danh như hào quang để lưu danh mà như một minh chứng cho khả năng thực hiện nghĩa vụ kẻ sĩ. Khi đã hoàn tất, ông giải phóng bản thân khỏi mọi sợi dây định chế. Những chi tiết “ngất ngưởng” không phải màn biểu diễn lập dị mà là sự tuyên bố rằng cá tính có quyền vượt khỏi cái nhìn gom khuôn của xã hội. Cách ông cưỡi bò hay đưa đào nương đi theo bộc lộ sự lật nhào hệ trật tự quen thuộc. Ông dùng sự phi chuẩn để thách thức sự máy móc của chuẩn mực. Giọng điệu bài thơ khiến người đọc cảm nhận một thái độ ung dung đến mức khó nắm bắt. Đó không phải ngông cuồng mà là một triết lí sống được thẩm thấu qua kinh nghiệm. Ông khẳng định phẩm giá bằng chính những điều đời thường. Bài thơ từ đó trở thành minh chứng cho quyền tự chủ văn hóa. Nguyễn Công Trứ dùng tiếng nói cá nhân để chống lại sự thuần hóa.

Mẫu 20

Trong bài thơ, ta thấy một sự chuyển dịch tinh tế từ ý thức công dân sang ý thức nghệ sĩ. Khi còn mang trách nhiệm, ông sống như người của quốc gia. Khi đã thoát khỏi chúng, ông sống như người của chính mình. Sự tái xác lập bản thể diễn ra qua những hành vi khác biệt. Ông không cố tách khỏi đời mà muốn đời hiểu rằng cá tính là một cấu trúc có giá trị. Thái độ ngất ngưởng vì thế không hề bột phát. Nó như kết tinh của một quá trình chiêm nghiệm lâu dài. Giọng thơ như dao cắt qua những lớp hình thức rườm rà. Nguyễn Công Trứ chấp nhận mất sự thuận mắt để giữ sự chân thực. Ông biến sinh hoạt thành diễn ngôn phản biện xã hội. Bài thơ đặt câu hỏi về tự do: tự do có phải cái gì người đời sẵn sàng chấp nhận? Với ông, tự do là hành động không nhượng bộ. Chính điều ấy làm chân dung ông trở nên rực sáng và nhiều chiều cạnh.

Mẫu 21

Tác phẩm dựng hình một con người sống ở ranh giới giữa truyền thống và sự cách tân tinh thần. Khi làm quan, ông gắn với truyền thống nghĩa vụ. Khi nghỉ quan, ông bước sang vùng sáng của giải phóng cá nhân. Những cử chỉ “không giống ai” của ông gây ra sự đứt mạch trong thói quen cảm nhận của xã hội. Nhưng chính sự đứt mạch ấy mở ra không gian tư tưởng mới. Ông trở thành biểu tượng của kẻ dám chuyển dịch trọng tâm giá trị. Bài thơ chuyển từ khẳng định bản chất kẻ sĩ sang khẳng định quyền cá nhân. Đây là một dịch chuyển có tính thẩm mĩ và triết lí. Nguyễn Công Trứ không né tránh sự kỳ thị mà xem đó là cái giá tự nhiên của cá tính. Ông ung dung đi giữa tiếng cười và cái nhìn soi mói. Bài thơ vì vậy không chỉ kể chuyện về đời ông mà còn cho thấy cách một trí thức đối thoại với thời đại. Sự ngất ngưởng chính là nhịp điệu của đối thoại ấy.

Mẫu 22

Tác phẩm mở ra một không gian nơi cá nhân rời khỏi những trật tự vốn đã cố định qua hàng thế kỉ. Nguyễn Công Trứ kể về hành trình của mình như kể về hành trình của một người vượt ngục tinh thần. Ông thoát khỏi áp lực phải làm người “đứng đắn theo khuôn đúc”. Những hành động khác biệt là dấu hiệu của sự tái sinh bản thể. Ông xem những thước đo cổ điển đã lỗi thời. Bài thơ vì vậy vang lên như một bản tuyên ngôn của người can đảm. Cái ngất ngưởng bộc lộ trong từng nhịp điệu câu chữ. Nó không chiều độc giả mà yêu cầu độc giả phải thay đổi góc nhìn. Ông không hạ giọng để vừa với thị hiếu. Thay vào đó, ông nâng tiếng nói mình lên thành tiêu chuẩn của tự do. Tác phẩm không chỉ tự sự mà còn triết luận bằng hình tượng. Nhờ đó, chân dung ông hiện ra với vẻ tự trị hiếm có.

Mẫu 23

Ở bài thơ này, sự đối lập giữa “công danh” và “nhàn thân” được biến thành động lực nhận thức. Khi còn làm quan, ông thực hiện vai trò của mình trong khuôn khổ Nho giáo. Khi nhàn, ông phá khung để sống theo mỹ cảm riêng. Sự đột phá ấy khiến ông giống như người đứng ở mép của trật tự và hỗn độn. Ông chọn hỗn độn để giữ trọn bản tính. Những hành động “lạ đời” là phương tiện khẳng định chủ quyền cá nhân. Chúng không làm ông nhỏ lại trong mắt mình. Trái lại, chúng mở rộng biên giới tinh thần. Giọng thơ khiêu khích nhưng không hằn học, mang sắc thái của người đã nắm chắc lẽ đời. Bài thơ khiến người đọc phải xem lại quan niệm về sự đúng đắn. Ông không buộc ai phải theo mình. Ông chỉ chứng minh rằng bản thể có quyền tồn tại ngoài khuôn phép. Sự ngất ngưởng trở thành cách bảo vệ nhân cách.

Mẫu 24

Bài thơ cho thấy Nguyễn Công Trứ sử dụng chính đời sống làm chất liệu để tạo ra một diễn ngôn thẩm mĩ độc lập, vượt khỏi mọi ràng buộc của truyền thống. Khi ông kể lại những thành tựu công danh, đó không phải tâm thế khoe khoang mà là một động tác tự xác lập quyền lực tinh thần. Chính quyền lực ấy cho phép ông bước ra khỏi cung cách khuôn mẫu. Trong cảnh sống nhàn, ông chủ động kiến tạo hình ảnh "khác người" như một thực nghiệm văn hóa. Cách ông cưỡi bò hay đi cùng đào nương không phải sự tùy tiện mà là một chiến lược phá vỡ cái nhìn áp đặt của xã hội. Ông biến hành vi thành biểu tượng phê bình những quy ước quá cứng nhắc. Giọng thơ như giữ một khoảng cách sáng suốt với người đời. Nguyễn Công Trứ ý thức về vị trí ngoại biên của mình nhưng không hề sợ hãi. Sự ngất ngưởng chính là hình thái biểu đạt của một cái tôi đã đạt tới độ chín của minh triết. Nhờ thế, bài thơ tỏa ra tinh thần tự do đậm đặc.

Mẫu 25

Đọc bài thơ, ta cảm nhận rõ một nỗ lực biến quá khứ thành chất liệu để kiến lập cái tôi nghệ thuật. Nguyễn Công Trứ không chỉ kể chuyện đời mình mà còn thao tác hoá nó thành biểu tượng của sự tự trị. Công danh đối với ông như một đoạn đường phải đi, chứ không phải thứ xác lập bản ngã. Khi đoạn đường ấy đã trọn, ông rẽ sang hướng mới để khẳng định năng lực làm chủ cuộc đời. Những hình ảnh tưởng như nghịch ngợm lại mang logic tư tưởng sâu sắc, vì chúng đặt cái phi chuẩn thành giá trị thẩm mĩ. Ông thể hiện ý chí vượt khỏi thói quen đánh giá của xã hội. Bài thơ có phong vị của một bản tuyên ngôn nghệ thuật: nghệ sĩ không thể tồn tại nếu bị trói trong chuẩn mực. Giọng thơ nhấn nhá sự độc lập để biến niềm kiêu hãnh thành âm hưởng chủ đạo. Ông đứng giữa đời với nụ cười nhẹ, như người đã hiểu sự vô nghĩa của mọi định kiến. Tác phẩm vì thế mở ra chân dung kẻ sĩ giàu cốt cách hiện đại.

Mẫu 26

Trong bài thơ, Nguyễn Công Trứ thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về cơ chế vận hành của quyền lực văn hóa. Ông từng đứng trong trung tâm quyền lực chính trị, nên ông biết rõ trọng lượng của danh vị. Khi quyết định đứng ra ngoài, ông không rời bỏ quyền lực mà chuyển hóa nó. Quyền lực của ông từ đó đến từ sự tự trị tinh thần. Hành động cưỡi bò hay đưa đào nương theo hàm chứa thái độ chơi ngông có tính chiến lược. Ông đòi lại quyền diễn giải đời mình khỏi tay dư luận. Bài thơ là minh chứng cho nỗ lực định vị lại hình ảnh kẻ sĩ trong bối cảnh đã bắt đầu xuất hiện sự rạn nứt giữa cá nhân và truyền thống. Giọng thơ cân bằng giữa tự trào và tự chủ. Ông tự cười mình trước khi người đời có thể cười. Điều này khiến tiếng nói của ông vượt khỏi sự phán xét đời thường. Sự ngất ngưởng trở thành phương tiện chống lại sự đóng khung. Tác phẩm mở đường cho cái tôi hiện đại trước khi thời đại ấy thực sự đến.

Mẫu 27

Tác phẩm khắc họa một Nguyễn Công Trứ vừa thuộc về thời đại, vừa vượt qua thời đại ấy. Ông thành công trong công danh bằng tài năng không thể phủ nhận. Nhưng chính sự thành công ấy lại khiến ông nhận ra những giới hạn của hệ thống chuẩn mực. Khi rời chức vụ, ông bước vào một không gian sống mới, nơi luật lệ được thay thế bằng trực giác cá nhân. Những hành vi “khác người” tuy gây tranh cãi nhưng phản ánh quá trình chuyển đổi của một tinh thần tự do. Ông sử dụng hình ảnh đời thường để vạch ra chỗ rạn trong cấu trúc lễ nghi. Bài thơ vì thế mang tính chất phản biện văn hóa. Giọng điệu của ông không hằn học, mà trầm tĩnh và giàu kiểm soát. Ông lựa chọn sự phóng khoáng như cách giữ gìn phẩm giá. Mỗi câu thơ đều phảng phất tinh thần của người hiểu rõ giá trị mình. Tác phẩm giúp ta thấy rằng sự độc đáo không phải mục đích mà là kết quả tự nhiên của tự do.

Mẫu 28

Tác phẩm thể hiện sức mạnh của cái tôi tư tưởng khi đối diện với một thế giới nặng về hình thức và phép tắc. Nguyễn Công Trứ không phủ nhận giá trị của truyền thống, nhưng ông từ chối để truyền thống quyết định toàn bộ cách sống. Khi nhắc đến công danh, ông không cố làm cho mình trở nên vĩ đại mà chỉ muốn chứng minh rằng ông đã làm tròn vai. Chính sự tròn vai ấy cho phép ông rời bỏ mà không thấy day dứt. Ở giai đoạn nhàn, ông quay về với một dạng hiện hữu chân thực nhất. Những hành vi gây tranh luận bộc lộ ý chí tách khỏi cái nhìn tầm thường. Giọng thơ có một độ trễ suy tư, khiến người đọc cảm giác như đang nghe một triết gia ẩn sau dáng vẻ ung dung. Ông nhìn đời bằng đôi mắt đã được giải phóng khỏi mong đợi của xã hội. Bài thơ trở thành hành trình tìm lại bản nguyên. Sự ngất ngưởng là trạng thái tự do ở mức sâu nhất, nơi con người hoàn toàn thuộc về chính mình.

Bố cục

- Phần 1 (6 câu thơ đầu): Quan điểm sống ngất ngưởng khi làm quan.

- Phần 2 (10 câu thơ tiếp): Quan niệm sống ngất ngưởng khi về hưu.

- Phần 3 (còn lại): Quãng đời khi cáo quan về hưu.


Nội dung chính

Bài ca ngất ngưởng cho thấy lối sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong khuôn khổ xã hội phong kiến chuyên chế. Ông dám thể hiện cái tôi cá tính của mình một cách mạnh mẽ.


Tìm hiểu chung

1. Xuất xứ

Bài thơ được viết sau năm 1848, khi tác giả cáo quan về ở ẩn

2. Đề tài

Bản lĩnh của cá nhân tác giả

3. Phương thức biểu đạt

Biểu cảm

4. Thể loại

Ca trù


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 11 - Kết nối tri thức - Xem ngay

Group 2K9 Ôn Thi ĐGNL & ĐGTD Miễn Phí