Soạn bài Trao duyên SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết>
Mối tình Kim-Kiều được Nguyễn Du miêu tả như một “thiên tình sử” tuyệt đẹp. Bạn hãy đọc một đoạn thơ trong Truyện Kiều hoặc một bài thơ của tác giả khác nói về tình yêu của họ.
Tổng hợp đề thi giữa kì 1 lớp 11 tất cả các môn - Kết nối tri thức
Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh
Video hướng dẫn giải
Nội dung chính
Đoạn trích thể hiện bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều qua đó thể hiện tiếng kêu đau đớn của tác giả về số phận con người trong xã hội phong kiến. |
Trước khi đọc
Câu hỏi (trang 14, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Mối tình Kim-Kiều được Nguyễn Du miêu tả như một “thiên tình sử” tuyệt đẹp. Bạn hãy đọc một đoạn thơ trong Truyện Kiều hoặc một bài thơ của tác giả khác nói về tình yêu của họ.
Phương pháp giải:
Dựa vào hiểu biết của bản thân để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Đoạn thơ miêu tả lời dặn dò đầy đau đớn, xót xa khi Kim Trọng phải về Liêu Dương chịu tang chú. Trước lời chủ động thể hiện lòng mình của Thúy Kiều, Kim Trọng phải thốt lên rằng:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
Để an ủi, động viên Kim Trọng, Thúy Kiều lại lần nữa khẳng định:
Đã nguyền hai chữ đồng tâm,
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê
Tiếng sen sẽ động giấc hè,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần.
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao
Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Trong khi đọc 1
Câu 1 (trang 14, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Hình dung bối cảnh của cuộc trao duyên (thời gian, không gian, hoàn cảnh của nhân vật).
Phương pháp giải:
Đọc kỹ 4 câu đầu để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Bối cảnh của cuộc trao duyên:
- Thời gian: ban đêm
- Không gian: trong phòng, bên ánh đèn dầu
- Hoàn cảnh của nhân vật: trước ngày Thúy Kiều chuẩn bị theo Mã Giám Sinh về quê người (nàng quyết định bán thân để lấy tiền chuộc cha và em).
- Thời gian: ban đêm
- Không gian: trong phòng, bên ánh đèn dầu
- Hoàn cảnh của nhân vật: trước ngày Thúy Kiều chuẩn bị theo Mã Giám Sinh về quê người (nàng quyết định bán thân để lấy tiền chuộc cha và em).
Sau đêm thề nguyện giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về gấp hộ tang chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập đến nhà Kiều vì sự vu oan của thằng bán tơ. Cha và em trai bị đánh đập tàn nhẫn, của cải bị cướp sạch. Kiều buộc phải bán mình chuộc tội cho cha và em.
Trong khi đọc 2
Câu 2 (trang 14, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Chú ý nội dung lời “hỏi han” của Thúy Vân.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ nội dung của 5 câu tiếp.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Lời hỏi han của Thúy Vân: Thúy Vân thấy chị đêm đã khuya vẫn trầm tư, lo lắng ngồi bên ngọn đèn khuya mà suy tư nên đến cạnh hỏi han Thúy Kiều.
Thúy Vân thấy chị đêm đã khuya vẫn trầm tư, lo lắng ngồi bên ngọn đèn khuya mà suy tư nên đến cạnh hỏi han Thúy Kiều.
Lời hỏi han của Thúy Kiều nhắc nhở Thúy Vân sao vô tư và ngủ một giấc ngon lành y như chẳng có chuyện gì xảy ra trong nhà như vậy. May mà mày còn chợt tỉnh và còn biết nghĩ đến chị.
Trong khi đọc 3
Câu 3 (trang 14, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Theo dõi cảm xúc, suy nghĩ của Thúy Kiều:
- Khi nói lời nhờ cậy Thúy Vân
- Khi trao kỉ vật cho Thúy Vân.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ những câu thơ từ 720 đến 745 của đoạn trích.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
- Khi nói lời nhờ cậy Thúy Vân: tâm trạng của Thúy Kiều ngổn ngang, không nói cũng không được mà nói cũng không xong, đó là cảm xúc đầy bất ổn, lo trước tính sau của Thúy Kiều khi có ý định nhờ cậy Thúy Vân.
- Khi trao kỉ vật cho Thúy Vân: Thúy Kiều kể ra hoàn cảnh của mình với em, rằng nàng không muốn thành người vô ơn, phụ bạc nên nhờ Thúy Vân nối tiếp tình duyên với Kim Trọng thay mình.
- Khi nói lời nhờ cậy Thúy Vân: tâm trạng của Thúy Kiều ngổn ngang, không nói cũng không được mà nói cũng không xong
- Khi trao kỉ vật cho Thúy Vân: Thúy Kiều kể ra hoàn cảnh của mình với em, rằng nàng không muốn thành người vô ơn, phụ bạc nên nhờ Thúy Vân nối tiếp tình duyên với Kim Trọng thay mình.
- Khi nói lời nhờ cậy Thúy Vân: lòng rối như tơ vò
- Khi trao kỉ vật cho Thúy Vân: xót xa, tủi thân
Trong khi đọc 4
Câu 4 (trang 15, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Chú ý lời Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân khi trao kỷ vật.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ câu thơ từ 735 đến hết.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Lời dặn dò của Thúy Kiều với Thúy Vân là sự nhờ cậy của Thúy Kiều với em, hy vọng em sẽ thay mình nên duyên với Kim Trọng.
Là sự nhờ cậy của Thúy Kiều với em, hy vọng em sẽ thay mình nên duyên với Kim Trọng.
Khi tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang diễn ra tươi đẹp và đằm thắm thì thình lình tai biến lại dồn đến. Sau khi thu xếp mọi việc bán mình để cứu cha và em, ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh rời khỏi nhà. Đêm ấy, Kiều không đành lòng với tình cảnh dang dở cùng Kim Trọng nên cuối cùng, sau khi tìm cách thuyết phục và trao duyên cho em, khi thấy Vân đã cảm thông, Thúy Kiều đem từng kỉ vật trao tình yêu giữa mình và Kim Trọng ra trao cho em gái.
Trong khi đọc 5
Câu 5 (trang 16, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Mười dòng thơ cuối là lời của Thúy Kiều nói với ai?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ 10 dòng cuối.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Mười dòng thơ cuối là lời của Thúy Kiều nói với Thúy Vân hay với chính bản thân nàng. Rằng sau này dù nàng có đang sống, hay khổ đau đều sẽ chúc phúc cho hai người và hy vọng mọi người sẽ nhớ đến nàng, nhớ đến sự tồn tại của người con gái xinh đẹp, duyên dáng ấy.
Thúy Kiều nói với Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng.
Sau khi đọc 1
Câu 1 (trang 16, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Nêu bố cục của đoạn trích và chỉ ra đâu là lời người kể chuyện, đâu là lời đối thoại, lời độc thoại của các nhân vật.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn trích để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
- Phần 1 (12 câu đầu): Kiều thuyết phục Thúy Vân chấp nhận lời trao duyên của mình
- Phần 2 (14 câu tiếp): Kiều trao kỉ vật của mình và dặn dò Thúy Vân
- Phần 3 (còn lại): Kiều đau đớn, độc thoại nội tâm
Lời người kể chuyện: 711,725,730,735
Lời đối thoại nhân vật: 715,720,740,745
Lời độc thoại nhân vật: 750,755.
Sau khi đọc 2
Câu 2 (trang 16, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Thuý Kiều nảy sinh ý định trao duyên cho Thuý Vân trong thời điểm nào?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn trích để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Thúy Kiều nảy ra ý định trao duyên cho Thúy Vân khi nàng chuẩn bị phải theo Mã Giám Sinh về quên người theo thỏa thuận để lấy tiền chuộc cha. Nàng nghĩ đến mối tình của mình với Kim Trọng và nhận thấy không đành lòng phụ bạc hắn nên nàng muốn nhờ Thúy Vân nối tiếp tình duyên của mình với Kim Trọng và cho rằng như vậy là lựa chọn tốt nhất.
Thúy Kiều nảy ra ý định trao duyên cho Thúy Vân khi nàng chuẩn bị phải theo Mã Giám Sinh về quên người theo thỏa thuận để lấy tiền chuộc cha.
Việc trao duyên của Thúy Kiều cho Thúy Vân diễn ra trước khi Kiều thu xếp việc bán mình.
Sau khi đọc 3
Câu 3 (trang 16, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Đọc đoạn thơ (từ câu 719 đến 748) và trả lời các câu hỏi sau:
a. Lời nhờ cậy Thúy Vân được Thuý Kiều bày tỏ với thái độ như thế nào? Tìm hiểu giá trị của những từ ngữ được dùng để thể hiện thái độ đó.
b. Thuý Kiều đã dựa vào điều gì để thuyết phục Thuý Vân nhận lời trao duyên?
c. Khi trao kỉ vật cho Thuý Vân, Thuý Kiều đã dặn dò những gì? Lời dặn dò ấy có nhất quán với lời nàng nhờ cậy và thuyết phục Thuý Vân trước đó hay không? Chỉ ra những từ ngữ, chi tiết thể hiện sự nhất quán hoặc không nhất quán ấy.
d. Nếu diễn biến tâm lí của Thuý Kiều khi nói lời trao duyên và khi trao kỉ vật cho Thuý Vân. Hãy phân tích, lý giải quá trình diễn biến tâm lí đó.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn thơ từ 719 đến 748.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
a. Lời nhờ cậy Thúy Vân của Thúy Kiều bày tỏ một thái độ thành khẩn, Thúy Kiều sử dụng những từ như “cậy”, “lạy”, “thưa” để thể hiện thái độ khẩn thiết cầu xin của mình dành cho người em gái, nàng đã dùng đối đãi của bề dưới dành cho bề trên với Thúy Kiều.
b. Khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, Thúy Kiều trước hết trình bày về hoàn cảnh của mình, nói về mối tình đẹp đầy dang dở của mình với Kim Trọng và mong Thúy Vân sẽ hiểu cho tình cảnh của nàng mà chấp nhận lời nhờ vả này. Bởi lẽ, nàng biết mình không thể vừa hoàn thành chữ “hiếu” và chữ “tình” cùng một lúc, nàng cũng đau khổ, day dứt và cảm thấy có lỗi khi từ bỏ mối tình với Kim Trọng nên Kiều càng hy vọng Thúy Vân có thể hiểu cho hoàn cảnh của nàng.
c. Khi trao kỉ vật cho Vân, Kiều dặn dò “Duyên này” là duyên của Thúy Vân và Kim Trọng, duyên với Thúy Kiều đã hết. Những kỷ vật này, vào giờ phút này sẽ trở thành của chung của 2 chị em, Kiều cũng sẽ chỉ có một phần trong đó. Lúc Kiều kể cho Thúy Vân nghe về mối tình của mình, nàng bình tĩnh, chậm rãi kể nhưng khi đến lúc trao kỷ vật cho Thúy Vân, có lẽ lòng nàng đang đau đớn, cắn rứt, tiếc nuối cho chính mối tình đẹp của mình bởi từ này nó không còn là mối tình của nàng nữa nên lòng nàng trở lên nặng trĩu, buồn rầu trước tình cảnh này.
d. Tâm trạng của nhân vật Kiều chia làm 3 giai đoạn chính trong đoạn trích Trao duyên:
- Đầu tiên nàng khẩn thiết nhờ cậy với Thúy Vân thể hiện qua câu thơ:
“Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Câu thơ thể hiện sự khẩn khoản, thiết tha của Thúy Kiều khi đặt niềm tin, mối tình của mình vào Thúy Vân, hy vọng cuối cùng của nàng. Tâm trạng nhờ cậy đó được thể hiện qua những từ ngữ như nhờ, mượn, phiền… thể hiện sự nhún nhường của Kiều dành cho Vân bởi giờ đây nàng đang là người đi nhờ cậy, nàng đã dùng vai vế của kẻ bề dưới để đối đãi với Thúy Vân. Qua đó thể hiện Thúy Kiều là một người rất tinh tế và hiểu chuyện.
Nàng kể về hoàn cảnh của mình, sự tiến thoái lưỡng nan khi không thể cùng lúc thực hiện được cả chữ hiếu với tình. Nàng đã làm tròn đạo hiếu với cha nàng, với em nàng nhưng còn Kim Trọng, có lẽ nàng sẽ phải phụ chàng, phụ mối tình dang dở tuyệt đẹp này. Bởi vậy, nàng muốn nhờ cậy Thúy Vân, có thể nên duyên với Kim Trọng, tiếp tục mối tình với chàng, như vậy dù nàng ở đâu thì trong lòng cũng cảm thấy thanh thản và bình yên một chút. Sự dang dở này được thể hiện rõ nét qua câu thơ “Giữa đường đứt gánh tương tư”, đó là sự dang dở của một mối tình đẹp, đầy tiếc nuối.
Tiếp tục, Kiều thuyết phục Thúy Vân hãy giúp mình, chấp nhận mối tình dang dở này dù muốn hay không. Kiều mong muốn Vân sẽ thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, cùng chàng dệt lên câu chuyện tình yêu tuyệt đẹp qua những cụm từ: tình máu mủ, lời non nước, thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối… nhằm thuyết phục Thúy Vân đồng ý duyên này thay mình. Nàng cũng khẳng định, sau này dù có ở bất kỳ nơi đâu, nàng cũng luôn hướng về và chúc phúc cho tình duyên này của Thúy Vân và Kim Trọng.
Đặt trong mối quan hệ đầy khẩn thiết này, dường như Thúy Kiều đang dùng tình thân để buộc Thúy Vân chấp nhận mối tình dang dở này. Nàng biết như vậy là ích kỷ, bất công với Thúy Vân nhưng trước hoàn cảnh như này, có lẽ đây là giải pháp tốt nhất dành cho cả hai. Để rồi Thúy Kiều bỏ ra những kỷ vật và trao cho Thúy Vân. Đây chính là lúc lòng nàng đau như cắt bởi mối tình tâm tâm niệm niệm của mình bỗng chốc sắp tan thành mây khói, nàng phải trao cho em mình, từ nay người bên Kim Trọng không phải nàng mà là Thúy Vân, người sẽ thay nàng yêu Kim Trọng và cứ nghĩ đến điều đó thì lòng nàng lại đau đớn, khôn nguôi.
Kết thúc đoạn thơ, Kiều cũng đã tự dự đoán trước tương lai của chính mình, có thể nàng sẽ thật sự chết đi “hiu hiu gió” hay “trâm gãy gương tan”… đó đều là những dự cảm chẳng lành của Thúy Kiều về một tương lai mờ mịt nơi đất khách quê người.
a. “Cậy, lạy, thưa” là những từ mà người ở vai dưới nói chuyện với người vai trên. Những từ ngữ này thể hiện sự tôn trọng đặc biệt của Kiều dành cho người em gái mà mình nhờ vả. Dù mình ở vai trên nhưng Kiều không dùng sự ra lệnh đối với em. Tuy trong lòng cô nhiều suy nghĩ, trăn trở nhưng vẫn bình tĩnh xử lí, sắp xếp, thu vén chuyện của mình.
b. Kiều trình bày với em về hoàn cảnh của mình, về mối tình dang dở của mình với chàng Kim và mong em hãy thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà chấp nhận mối tơ thừa của chị. Hai người đã có những hẹn thề gắn bó dài lâu nhưng nay Kiều không giữ lời hứa đó. Bởi lẽ, nàng không thể hoàn thành cả “chữ hiếu” lẫn “chữ tình”; nên “chữ tình” này, xin gửi lại để Vân thay chị thực hiện. Từng lời nói của Kiều là nỗi đau khổ, day dứt mà nàng đang phải trải qua. Nào ai muốn nhìn thấy cha và em trai bị oan trong tù? Nào ai muốn rời bỏ người mình yêu thương khi tình cảm rất mặn nồng? Ta càng thêm thương xót cho nàng Kiều bạc mệnh.
c. Lời trao duyên và dặn dò Thúy Vân:
Duyên này thì giữ vật này của chung. Lời lẽ thiếu chặt chẽ, thậm chí mâu thuẫn với những gì Kiều nới với em khi bày tỏ ước nguyện trao duyên. Trao duyên cho Thúy Vân mà nàng vẫn muốn kỉ vật là “của chung” – như muốn giữ cả phần mình trong đó. Trao "duyên" xong, nhưng lòng Kiều càng nặng trĩu, đầy những giằng xé, những níu kéo, tiếc nuối vô cùng. Lý trí bắt nàng từ bỏ tình yêu với chàng Kim Trọng yêu thương, nhưng trái tim và tình cảm của Kiều lại không cho phép nàng làm vậy.
d. Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên diễn biến qua ba chặng như ba nấc thang tâm lí:
- Lời trao duyên và lời thuyết phục Thúy Vân: từ ngữ chọn lọc, hàm súc, cách nói tinh tế, chặt chẽ, cho thấy Kiều rất bình tĩnh, sáng suốt.
- Tâm lí của nhân vật đã biến đổi từ trạng thái tỉnh táo, sáng suốt chuyển thành lúng túng, bối rối, thậm chí có lúc rơi vào ảo giác. Sự đổi thay bắt đầu từ khoảnh khắc Thúy Kiều trao cho Thúy Vân kỉ vật: chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền,... Mỗi kỉ vật xuất hiện là thêm một lần sống dậy, kỉ niệm đánh thức tình yêu, khiến trái tim lên tiếng, lấn át cả lí trí.
Sau khi đọc 4
Câu 4 (trang 16, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Phân tích diễn biến tâm trạng của Thuý Kiều trong mười dòng thơ cuối (chú ý sự thay đổi đối tượng tâm tình và giọng điệu).
Phương pháp giải:
Đọc kỹ mười dòng thơ cuối để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Sau khi trao duyên cho Thúy Kiều cùng lời nhắn nhủ độc thoại của nàng với Kim Trọng “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”, qua đó thể hiện tấm lòng của một người sắp chia xa nhưng bởi tình cảm mặn nồng khiến họ càng đau xót, buồn thương.
Cuộc đời bạc bẽo đã đẩy nàng đến tận cùng của khổ đau, nàng phải hạ thấp bản thân, bán mình để cứu cha và em nhưng làm thế nào đây, nàng phải phụ Kim Trọng – người nàng yêu say đắm và đã lỡ đính ước. Câu cuối như một lời tự trách cũng như lời kết lại mối tình của Kim Kiều rằng nó đã chấm dứt và người phụ chính là Thúy Kiều.
Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, Kiều âm thầm nhắn nhủ đến Kim Trọng: nàng đã phụ tình chàng từ đây. Đó không chỉ là câu nói đau xót khi phải chia tay người yêu khi tình cảm vẫn còn mặn nồng sâu sắc mà còn là suy tư về cuộc sống tăm tối phía trước đang chờ đón Kiều.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Tơ duyên của Kiều và Kim chỉ ngắn ngủi có từng ấy, xin gửi lại chàng mối duyên này cho người em là Thúy Vân. Kiều đã phải thốt lên: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” đây vừa là lời xin lỗi Kiều gửi đến Kim, vừa là lời oán trách vì phận mình sao bạc bẽo. Kiều không chỉ suy nghĩ về việc cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình cho Vân mà còn suy nghĩ cho người mình hết lòng yêu thương. Một cô gái nhỏ bé vốn sống bình an nay phải suy tư rất nhiều, không chỉ thế,cuộc sống trôi nổi phía trước của nàng cũng khiến người ta vô cùng đau xót về kiếp hồng nhan bạc phận. Khi nhờ cậy và thuyết phục Thúy Vân nhận lời trao duyên, Kiều đã mong muốn chu toàn cả bên tình, bên hiếu. Nàng hi vọng có thể bớt được những day dứt, khắc khoải, đau đớn của mối tình dang dở khi nhờ em “thay lời nước non”. Nhưng kết thúc cuộc trao duyên, tình yêu, nỗi đau vẫn vẹn nguyên, thậm chí còn trào dâng mãnh liệt hơn. Diễn biến tâm lí của Kiều đi qua nhiều cảm xúc khác nhau, từ nghĩ cách cứu cha và em, trao lại mối duyên của mình, đến việc nghĩ cho người mình yêu thương và đến cuộc sống bấp bênh của nàng sau này khiến người ta không khỏi đau xót.
Sau khi đọc 5
Câu 5 (trang 16, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Nhận xét về nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du trong đoạn trích. Hãy minh hoạ bằng một ví dụ mà bạn thấy tâm đắc.
Phương pháp giải:
Chú ý vào nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du trong đoạn trích.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Nguyễn Du đã rất độc đáo trong việc thể hiện hoàn cảnh của nhân vật cũng như diễn biến tâm trạng đầy ngổn ngang của nhân vật trữ tình khi rơi vào hoàn cảnh éo le. Trước hết là lời nhờ vả của Thúy Kiều, bằng sự tinh tế, ông đã để cho Thúy Kiều hạ thấp mình để cầu xin Thúy Vân, qua đó để thấy được sự cực kì cần thiết của Kiều trong câu chuyện này. Nàng thật sự rất cần sự giúp đỡ của Thúy Vân để xoa dịu mối tình đầy dang dở và khổ đau này. Qua đó, ta thấy được rõ cái lý, cái tình của Nguyễn Du được thể hiện qua nhân vật Thúy Kiều, đây không phải là lời ép buộc trực tiếp nhưng nó sẽ khiến Thúy Vân khó lòng từ chối trước sự khẩn thiết của chị gái mình. Đó chính là nét tài hoa của Nguyễn Du được thể hiện qua câu chuyện.
Nguyễn Du đã rất độc đáo trong việc thể hiện hoàn cảnh của nhân vật cũng như diễn biến tâm trạng đầy ngổn ngang của nhân vật trữ tình khi rơi vào hoàn cảnh éo le. Trước hết là lời nhờ vả của Thúy Kiều, bằng sự tinh tế, ông đã để cho Thúy Kiều hạ thấp mình để cầu xin Thúy Vân, qua đó để thấy được sự cực kì cần thiết của Kiều trong câu chuyện này. Nàng thật sự rất cần sự giúp đỡ của Thúy Vân để xoa dịu mối tình đầy dang dở và khổ đau này. Qua đó, ta thấy được rõ cái lý, cái tình của Nguyễn Du được thể hiện qua nhân vật Thúy Kiều
- Đoạn trích có sự kết hợp, đan xen của nhiều hình thức ngôn ngữ: lời kể chuyện, lời nhân vật (lời đối thoại, độc thoại nội tâm), lời nửa trực tiếp. Tác giả đã sử dụng các hình thức ngôn ngữ đó một cách linh hoạt để khám phá, tái hiện thế giới nội tâm.
- Nguyễn Du đã kết hợp tinh hoa của hai dòng ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân. Từ Hán Việt được Việt hóa, kết hợp từ thuần Việt một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo. Ví dụ, “Giữa đường đứt gánh tương tư/ Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”, nhà thơ đã sử dụng nhiều thành nữ (rẽ cửa chia nhà, bạc như vôi, nước chảy hoa trôi,...), nhiều từ ngữ của đời thường bình dị hòa vào lời thơ một cách tự nhiên, linh hoạt. Nguyễn Du đã dày công tìm kiếm, chọn lọc, trau chuốt để sáng tạo nên một thứ tiếng Việt đẹp đẽ, giàu có, uyển chuyển.
Kết nối đọc - viết
Câu hỏi (trang 16, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Truyện Kiều là tiếng nói hiểu đời, thương đời của Nguyễn Du. Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) chỉ ra biểu hiện của sự "hiểu" và "thương" ấy trong đoạn trích Trao duyên.
Phương pháp giải:
Chú ý vào tình huống của truyện để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Cách 1
Thúy Kiều thực sự là một người đáng thương hơn đáng trách. Có thể mọi người sẽ thấy nàng làm như vậy có thể là ích kỷ bởi sao lại bắt em mình phải nên duyên với người mình yêu. Nhưng khi xét kỹ về các góc độ ta sẽ thấy, điều đó là hoàn toàn hợp lý. Kiều đã vì gia đình, làm tròn chữ hiếu mà từ bỏ hạnh phúc cả đời của mình bằng việc bán thân – chuyện mà nhiều người sẽ không dám làm và nay, khi nàng đang chuẩn bị phải chia xa, nhưng vì vẫn mang nặng lòng với Kim Trọng, nàng không thể yên lòng rời đi và đó là lúc nàng nhờ cậy Thúy Vân. Thúy Vân thực sự khó có thể từ chối duyên này bởi nàng thương chị gái và trước lời khẩn thiết như vậy, nàng phải chấp nhận nó. Đến đây, ta thấy Kiều thực sự rất đáng thương, nàng không muốn phụ ai ở đây cả và nàng đã chọn cách trao duyên để mối tình này có phần được xoa dịu và vì vậy, nó đáng thương hơn là đáng trách.
Giá trị tiêu biểu của văn học không nằm ở hiện tượng bề ngoài mà nằm ở chiều sâu hiểu biết về con người. Điểm sâu sắc và giàu sức thuyết phục nhất của Truyện Kiều là ở chỗ, qua thế giới nhân vật, Nguyễn Du thể hiện một tấm lòng rất mực thông cảm, bao dung đối với con người. Ông hầu như hiểu hết mọi điều uẩn khúc của con người, nhìn rõ chỗ mạnh chỗ yếu, thậm chí cả chỗ tầm thường của họ và miêu tả với tấm lòng xót xa, thương cảm. Qua các nhân vật, Nguyễn Du biểu hiện lòng thông cảm, bao dung nhìn rõ chỗ mạnh, chỗ yếu chỗ tầm thường của con người. Trước hết, Kiều tự xót xa cho thân phận mình, tự thấy mình là “người mệnh bạc”, tự thấy mình còn sống mà như đã chết, đã “mất người”, hình dung ra một tương lai không xa: Thúy Vân hạnh phúc bên Kim Trọng, còn linh hồn nàng trở về trong ngọn gió, không siêu thoát được vì còn “mang nặng lời thề”. Kiều thấy rõ nỗi đau khổ của mình - “người thác oan". Tiếng nói thương đời, hiểu đời vang lên mãnh liệt, quằn quại, đau đớn trong giờ phút đỉnh điểm của “trao duyên”. Trao duyên, với Kiều, đồng nghĩa với trao cả sự sống, hạnh phúc. Trao duyên đồng nghĩa với việc Kiều sẽ trở thành “người mệnh bạc”, “mất người”, “người thác oan”, “phận bạc như vôi”… Thúy Kiều trao duyên cho Thúy Vân để giảm đi nỗi day dứt trong lòng TK và phần nào làm theo quy luật người xưa. Thái độ của Thúy Kiều khẩn khoản càng tỏ ra là người hiểu được tình thế và vị trí hiện tại của mình. Lời nói với Thúy Vân thể hiện sự ai oán, day dứt nhưng cũng khiến cho Thúy Vân suy nghĩ.Tiếng nói thương thân, xót thân gắn liền với bi kịch tình yêu tan vỡ, trao duyên nhưng không thể trao tình, thậm chí duyên đã trao đi mà tình càng thêm nặng. Vậy mới càng thấy bi kịch tình yêu, vậy mới càng thấy rõ tấm lòng vị tha, đức hi sinh và tình yêu sâu nặng của Kiều dành cho Kim Trọng.
- Soạn bài Độc Tiểu Thanh kí SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết
- Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 20 SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết
- Soạn bài Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết
- Soạn bài Nói và nghe Giới thiệu một tác phẩm văn học SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết
- Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 28 SGK Ngữ văn 11 tập 2 Kết nối tri thức - chi tiết
>> Xem thêm
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 11 - Kết nối tri thức - Xem ngay