Đề thi giữa kì 1 Văn 12 Cánh diều - Đề số 7 >
Tải vềĐề thi giữa kì 1 Văn 12 bộ sách Cánh diều đề số 7 được biên soạn theo hình thức trắc nghiệm và tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp
Tổng hợp đề thi giữa kì 1 lớp 12 tất cả các môn - Cánh diều
Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh
Đề thi
Môn: Ngữ văn lớp 12
Thời gian làm bài: 90 phút - Không kể thời gian phát đề
I. ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau:
Những vườn xung quanh, mai đã bắt đầu trụi lá. Ngày nào, chú Tảo cũng cái quần soọc đen lơ lửng, áo may-ô thủng lỗ chỗ, đầu đội cái nón kết đỏ, len lỏi giữa những hàng cây hỏi sang: "Bên ấy chưa nhặt lá à?". Chưa ai nhặt lá mai cả.
Trong vườn, mai vẫn rậm rịt, không ai rảnh mà làm việc ấy, gần cuối năm, bà cụ lại được mời đi tỉnh chơi, những người trẻ còn lại trong nhà đùn đẩy nhau, ai cũng ngại, ai cũng cố cho rằng người ta chỉ bày vẽ, chứ cứ thử không nhặt xem, nó có nở không? Nở quá đi chứ!
Rồi một người nhớ ra, bảo "Ờ năm nay không có chú nhỏ nào đến nhặt lá giùm nhỉ?". Ở nhà, không cần quy ước, cứ ai lân la tán tỉnh Hạc đều được gọi là "chú nhỏ", có chú đến rồi đi luôn, có chú lai rai lâu lâu đảo qua một lần rồi biến mất, mỗi chú để lại một vài kỷ niệm trong nhà, trong vườn, trong cái trại gà lợp lá dừa mục nát. Đó là những cái ghế con đóng vuông vức đầy đinh; những cành cây bị bẻ quặt, uốn cong, cố vặn theo hình con lân, con phụng; là hệ thống máng ăn cho gà, dùng không biết bao giờ mới hỏng... Mọi người vẫn đùa, hỏi: "Hạc! Mày có nhớ thằng nào làm việc nào không?". Hạc vêu mặt cười: "Nhớ chứ, tôi ghi sổ hết mà!". Mọi người cười đe: "Cẩn thận! Một trong những thằng ấy mà vớ được cuốn sổ thì mày khốn!"
Ờ đúng rồi, mấy năm nay chẳng có ai đến nhặt lá mai cho Hạc. Tuyến lấy vợ. Nhật xuất cảnh. Chức cách đây mấy hôm thấy chạy xe vèo vèo ngoài ngã ba, chở một đứa con gái bé như cái kẹo, không ôm iếc gì cả nhưng nhìn thì biết ngay là bồ bịch. Đó là những "chú nhỏ" năm xưa, tay lăm lăm kéo, đứng chông chênh trên cái ghế gỗ, hay khom lưng giữa những tàn mai già, nhặt lá. Lá mai xạm màu rơi đầy gốc, họ lại nghĩ ra việc quét vườn. Hạc lúc tựa gốc mít, lúc đi quanh chú nhỏ, nói chuyện "ngụ ngôn", đôi khi buồn cười, thấy hình như đã nói những câu thế này, cũng trong tiếng chổi lạt xạt quét vườn, vào năm ngoái, với người năm ngoái. Rồi về, nấn ná ở cổng, hẹn Tết nhớ đến coi mai nở, à trước Tết chứ, để còn chở đi chợ. Năm nào Hạc cũng phải giảng giải việc đi chợ Tết cho một người nào đấy, anh chị trong nhà lại cười: "Người vô duyên, không giữ ai được quá một năm!".
Rốt cuộc, cả đám người trẻ tuổi trong nhà vừa quyết định vừa cười láu cá: "Khỏi, thử một năm không nhặt lá, biết đâu hoa ra lác đác lại chẳng đẹp hơn?". Họ vùi đầu vào mua sắm, may cho nhanh mấy bộ quần áo Tết. Hai mươi tám Tết bà cụ mới về, đứng lọt thỏm giữa những bị cói, giỏ cước, trẻ con trong nhà ùa ra, miệng hét, tay xách, người lớn cũng ùa ra, cười: "Tết về rồi!". Bà cụ nhìn khoảng vườn còn rậm rịt lá mai, lắc đầu: "Chúng mày đáng sợ thật!" . Cả lũ lại cười.
Mùng Một, mùng hai Tết, không có mai, Hạc thấy Tết giống như một ngày chủ nhật, như nhà ai giàu có làm đám cưới đốt pháo thật nhiều. Một người nói: "Mày đừng có đổ thừa! Cái hoa mai quê mùa ấy việc gì làm mày mất Tết", rồi ngậm miệng ngay, nhìn Hạc như muốn nói: "Chẳng qua năm nay không thằng nào đến nữa mà thôi!". Hạc cũng chỉ cười, vào nhà nằm, lôi mấy tờ báo Xuân ra xem mà thấy buồn rũ rượi: "Năm nay mình đã bao nhiêu tuổi? Vì sao những ngày lễ Tết mình luôn phải nằm nhà?".
Một đứa cháu trèo lên giường, moi móc từ trong túi ra một đống hạt dưa và một nắm phong bao ra đếm lại. Hạc cười: " Dì thấy con đếm phải đến chục lần chứ không ít!". Cô nghĩ: "Ngày xưa mình cũng như thế này" rồi lơ mơ ngủ mất.
Mọi người kêu lên ngán ngẩm: "Hết Tết!". Rồi vặn đồng hồ báo thức, dậy sớm đi làm trở lại. Bây giờ bà cụ mới đi nhặt lá mai được, lụi cụi từ gốc này qua gốc khác, thỉnh thoảng pháo sót lẹt đẹt đâu đó trong xóm nhỏ. Hạc đi quanh mẹ: "Chi vậy?". Bà cụ móm mém cười: "Tội nghiệp, nhặt để nó nở!”
Mai nở. Một chiều kia, như đã hẹn, một cô bạn dẫn ông anh họ đến nhà Hạc, gửi anh ta lại bảo: "Ra chợ một chút" rồi phóng xe đi mất, lại bỏ nhỏ: "Ông đàng hoàng lắm đó!". Anh ta lù khù, tay khư khư giữ cái mũ vàng như củ nghệ, chậm chạp, mãi mới cởi được xăng-đan để vào nhà. Hạc cau mày: "Khi mình còn trẻ, cỡ này đừng hòng bò đến gần!". Rồi đau đớn nghĩ: "Sao mình cay đắng thế này!".
Họ ngồi một lúc lâu, có tám trang báo giở qua giở lại, chẳng đọc được tin gì. Cũng không biết nói chuyện gì. Hạc rủ: "Ra vườn xem mai chơi!". Họ đi qua những góc vườn, nơi khoảng một chục cây mai bung ra đặc kịt những hoa vàng nở muộn. Hạc nghĩ: "Có mai rồi đấy, mà vẫn không thành Tết!". Hai người khoanh tay bước, chỉ có tiếng lá mai lạt xạt dưới chân. Họ vẫn không biết nói gì, nghiêm trang như giám khảo hội hoa Xuân... Và nắng chiều tắt dần, như một dải voan cũ vắt trên ngọn cây, nhợt nhạt...
(Hoa muộn, Truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2012, tr 198 – 201)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định chủ đề của văn bản
Câu 2. Chỉ ra tình huống truyện của tác phẩm.
Câu 3. Nhân vật Hạc đã trải qua những nấc thang tâm lí như thế nào trong câu chuyện?
Câu 4. Phân tích tác dụng của việc sử dụng dấu ba chấm (…) trong câu văn sau: “Họ vẫn không biết nói gì, nghiêm trang như giám khảo hội hoa Xuân...”
Câu 5. Từ câu chuyện của nhân vật Hạc, anh (chị) có suy nghĩ gì về giá trị của kí ức đối với mỗi con người?
II. VIẾT
Câu 1:
Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày phân tích giá trị chủ đề của của truyện ngắn Hoa muộn (Phan Thị Vàng Anh).
Câu 2:
Có ý kiến cho rằng: “Trong thời đại hội nhập, biết giữ gìn bản sắc dân tộc là điều vô cùng quan trọng.” Em hãy viết một bài văn nghị luận xã hội trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên.
— Hết —
Lời giải
I. Đọc hiểu
Câu 1:
Phương pháp:
Đọc toàn bộ văn bản, xác định nội dung chính từ đó rút ra chủ đề
Cách giải:
Chủ đề của văn bản: Nét đẹp truyền thống trong ngày Tết/Nhặt lá mai/Hoa mai ngày tết.
Câu 2.
Phương pháp:
Xác định sự kiện bất thường hoặc mâu thuẫn cao trào của câu chuyện.
Cách giải:
Tình huống truyện của tác phẩm: Nhà Hạc có vườn mai thường nở đúng dịp Tết vì năm nào cũng có bạn của Hạc giúp nhặt lá đúng thời điểm trước tết. Nhưng năm nay, không có ai đến giúp Hạc nhặt lá mai nên mai nở muộn.
Câu 3.
Phương pháp:
Dựa vào nội dung văn bản tìm các chi tiết khắc họa nhân vật Hạc và đưa ra nhận xét
Cách giải:
Nhân vật Hạc đã trải qua những nấc thang tâm lí trong câu chuyện:
- Hồn nhiên, nhí nhảnh, vui tươi khi có nhiều “chú nhỏ” đến giúp đỡ việc nhà.
- Thấy buồn rũ rượi khi không còn ai đến nhặt lá mai giúp Hạc dịp Tết nữa: "Năm nay mình đã bao nhiêu tuổi? Vì sao những ngày lễ Tết mình luôn phải nằm nhà?".
- Thấy nuối tiếc, xót xa khi nhận ra mình không còn trẻ nữa: Hạc cau mày: "Khi mình còn trẻ, cỡ này đừng hòng bò đến gần!". Rồi đau đớn nghĩ: "Sao mình cay đắng thế này!".
Câu 4.
Phương pháp:
Vận dụng kiến thức về các tác dụng của dấu chấm lửng
Cách giải:
Tác dụng của việc sử dụng dấu ba chấm (…):
- Diễn tả khoảng lặng trong giao tiếp giữa Hạc và người anh họ của cô bạn thân.
- Góp phần bộc lộ cảm xúc ngại ngùng, khó nói của hai nhân vật trong hoàn cảnh chỉ có họ với nhau.
- Khiến lời kể giàu cảm xúc, bộc lộ sự đồng cảm, sẻ chia của tác giả với nhân vật Hạc trong truyện ngắn.
Câu 5.
Phương pháp:
Rút ra bài học từ câu chuyện của nhân vật Hạc.
Cách giải:
Từ câu chuyện của nhân vật Hạc, ta thấy được giá trị của kí ức đối với mỗi con người vô cùng lớn.
- Kí ức là những gì thuộc về quá khứ, để lại ấn tượng khó phai cho con người.
- Kí ức giúp con người nhìn nhận lại những gì đã qua, khơi dậy nguồn cảm xúc đẹp đẽ và là liều thuốc tinh thần quý giá.
- Kí ức có vai trò điều chỉnh suy nghĩ, hành động của con người trong thực tại và tương lai.
II. VIẾT
Câu 1:
Phương pháp:
- Hình thức: Đảm bảo cấu trúc đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp…); đảm bảo dung lượng 200 chữ.
- Nội dung: Có thể triển khai những ý cơ bản sau:
+ Khái quát tác giả, tác phẩm, đoạn trích.
+ Các chủ đề văn bản: sự thay đổi của thời gian và cuộc sống; sự trôi qua của thời gian và tuổi trẻ; sự lãng quên và cô đơn, sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại.
+ Vai trò của chủ đề chính, chủ đề phụ.
+ Đánh giá chung
Cách giải:
Truyện ngắn "Hoa muộn" của Phan Thị Vàng Anh khắc họa thành công chủ đề về sự thay đổi của thời gian và cuộc sống, thể hiện qua những biến chuyển trong các mối quan hệ và tâm trạng của nhân vật Hạc. Hình ảnh những chiếc lá mai rụng và sự vắng bóng của các "chú nhỏ" năm xưa đã cho thấy sự trôi qua của thời gian một cách rõ rệt. Khi những người trẻ trong gia đình bận rộn với cuộc sống riêng, không còn ai đến nhặt lá mai như trước, Hạc cảm thấy cô đơn và lạc lõng giữa dòng đời. Sự đối lập giữa quá khứ rộn ràng và hiện tại tẻ nhạt càng làm nổi bật nỗi buồn và sự tiếc nuối trong tâm hồn nhân vật. Việc mọi người quên đi truyền thống nhặt lá mai không chỉ khiến hoa nở muộn mà còn phản ánh sự thiếu vắng tình cảm và gắn kết gia đình. Qua đó, tác phẩm gửi gắm thông điệp nhân văn về giá trị của kỷ niệm và những rung cảm con người trong dòng chảy cuộc sống.
Câu 2:
Phương pháp:
I. Mở bài
- Trích dẫn ý kiến: Khẳng định đây là một quan điểm đúng đắn.
- Dẫn dắt và nêu vấn đề: vấn đề về hội nhập và giữ gìn bản sắc.
II. Thân bài
1. Giải thích
- Hội nhập: Là xu thế mở cửa, giao lưu quốc tế
- Bản sắc dân tộc: Là cái riêng, độc đáo, tạo nên "linh hồn" dân tộc (ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tinh thần).
=> Ý kiến khẳng định: Giữa quá trình hội nhập, việc giữ gìn bản sắc dân tộc có ý nghĩa sống còn.
2. Thực trạng
- Tích cực: Ngày càng có nhiều phong trào, dự án bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc (phục dựng lễ hội, đưa di sản vào trường học, giới trẻ quay về với âm nhạc dân tộc...).
- Tiêu cực & Thách thức:
+ Một bộ phận giới trẻ có xu hướng "sùng ngoại", coi nhẹ văn hóa truyền thống, đam mê văn hóa nước ngoài một cách thái quá mà quên lãng cội nguồn.
+ Nguy cơ mai một các giá trị văn hóa phi vật thể (các làn điệu dân ca, nghề thủ công truyền thống...).
+ Sự xâm nhập ồ ạt của các sản phẩm văn hóa ngoại lai thiếu lành mạnh qua internet và mạng xã hội.
3. Tại sao phải giữ gìn bản sắc?
- Bản sắc dân tộc là cội nguồn, căn tính, tạo nên sự khác biệt, tự hào của dân tộc.
- Giữ gìn bản sắc giúp khẳng định vị thế dân tộc trên trường quốc tế, tránh hòa tan, mất gốc.
- Đây là điều kiện để phát triển bền vững: vừa tiếp thu tinh hoa nhân loại, vừa giữ bản lĩnh riêng.
- Bản sắc dân tộc góp phần tăng sức hấp dẫn với bạn bè thế giới (ẩm thực, lễ hội, nghệ thuật, du lịch…).
4. Bài học nhận thức và hành động
* Nhận thức:
- Mỗi người cần ý thức sâu sắc rằng giữ gìn bản sắc dân tộc là trách nhiệm của chính mình, không phải của riêng ai.
- Cần có cái nhìn đúng đắn: Giữ gìn không có nghĩa là bảo thủ, khép kín; Hội nhập không có nghĩa là từ bỏ bản sắc. Đó là một quá trình "hòa nhập nhưng không hòa tan".
* Hành động:
- Trân trọng, bảo tồn di sản văn hóa (vật thể, phi vật thể).
- Giữ gìn tiếng Việt, phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp.
- Sáng tạo, hiện đại hóa trên nền tảng văn hóa dân tộc.
- Lan tỏa nét đẹp văn hóa: Áo dài Việt Nam, nhã nhạc cung đình, ca trù, nghệ thuật đờn ca tài tử, phở Việt…
- Các cơ quan chức năng cần có chính sách bảo tồn và phát huy hiệu quả; đưa văn hóa truyền thống vào giảng dạy trong nhà trường; truyền thông cần định hướng thẩm mỹ, tôn vinh cái đẹp của dân tộc.
5. Mở rộng
Phê phán: Một bộ phận giới trẻ sính ngoại, coi nhẹ giá trị truyền thống, chạy theo lối sống lai căng.
III. Kết bài
- Khẳng định lại: Trong hội nhập, giữ gìn bản sắc dân tộc chính là giữ lấy hồn cốt của dân tộc.
Cách giải:
Thời đại toàn cầu hóa đã mở ra những cánh cửa kỳ diệu, đưa thế giới xích lại gần nhau hơn bao giờ hết. Trong dòng chảy hội nhập ấy, một câu hỏi lớn được đặt ra: Làm thế nào để vừa bắt kịp nhịp sống hiện đại, vừa giữ được cốt cách tâm hồn dân tộc? Ý kiến “Trong thời đại hội nhập, biết giữ gìn bản sắc dân tộc là điều vô cùng quan trọng” chính là lời giải đáp thấu tình đạt lý cho câu hỏi đó, khẳng định một chân lý sống còn cho mọi quốc gia.
Vậy, “hội nhập” và “bản sắc dân tộc” là gì? Hội nhập là xu thế tất yếu khi các quốc gia mở cửa, giao lưu, hợp tác trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa đến khoa học kỹ thuật. Đó là cánh cửa đưa chúng ta ra biển lớn, tiếp thu tinh hoa nhân loại. Còn “bản sắc dân tộc” chính là linh hồn, là căn cước tinh thần của một dân tộc. Nó được kết tinh từ ngôn ngữ, phong tục tập quán, lễ hội, văn học nghệ thuật và hệ giá trị tinh thần (như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, hiếu học) được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử. Như vậy, ý kiến trên khẳng định: Giữa dòng xoáy hội nhập, việc giữ gìn bản sắc không phải là lựa chọn, mà là điều kiện sống còn để một dân tộc tồn tại và phát triển.
Thực tế hiện nay cho thấy một bức tranh với nhiều mảng sáng - tối đan xen. Mặt tích cực, chúng ta có thể thấy ngày càng nhiều những phong trào, dự án ý nghĩa nhằm bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc: các lễ hội truyền thống được phục dựng quy mô, di sản được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, và đáng mừng hơn là sự quay về của một bộ phận giới trẻ với âm nhạc dân tộc, với trang phục truyền thống. Tuy nhiên, mặt tiêu cực cũng không hề nhỏ. Một bộ phận giới trẻ có xu hướng “sùng ngoại”, coi thường văn hóa truyền thống, đuổi theo những trào lưu văn hóa ngoại lai một cách thái quá. Nguy cơ mai một các giá trị văn hóa phi vật thể như các làn điệu dân ca, nghề thủ công truyền thống là có thật. Sự xâm nhập ồ ạt của các sản phẩm văn hóa thiếu lành mạnh qua internet càng làm cho bài toán giữ gìn bản sắc thêm phần thách thức.
Vậy tại sao việc giữ gìn bản sắc lại quan trọng đến vậy? Trước hết, bản sắc là cội nguồn, là căn tính để chúng ta biết mình là ai, từ đâu đến. Nó nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc và là điểm tựa tinh thần vững chắc cho mỗi cá nhân. Thứ hai, giữ gìn bản sắc chính là cách để chúng ta khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Một dân tộc không có bản sắc riêng sẽ dễ dàng bị “hòa tan”, trở nên mờ nhạt và lệ thuộc. Ngược lại, chính những nét độc đáo của văn hóa Việt như áo dài, phở, nhã nhạc cung đình Huế, dân ca Quan họ... lại là “sứ giả” đầy quyến rũ, thu hút sự quan tâm và tôn trọng của bạn bè quốc tế. Cuối cùng, giữ gìn bản sắc là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững. Chúng ta chỉ có thể tiếp thu tinh hoa thế giới một cách chủ động, sáng tạo và có bản lĩnh khi chúng ta có một nền tảng văn hóa vững chắc. Nó là nguồn lực nội sinh, là sức mạnh mềm để phát triển du lịch, công nghiệp văn hóa, góp phần vào sự phồn vinh của đất nước.
Trước thực trạng và tầm quan trọng đó, mỗi chúng ta cần có những nhận thức và hành động cụ thể. Về nhận thức, phải hiểu rằng giữ gìn bản sắc là trách nhiệm của mỗi cá nhân, không của riêng ai. Chúng ta cần có cái nhìn đúng đắn: giữ gìn không đồng nghĩa với bảo thủ, khép kín, và hội nhập không có nghĩa là từ bỏ cội nguồn. Đó là một quá trình “hòa nhập nhưng không hòa tan”. Về hành động, mỗi người cần tích cực tìm hiểu, trân trọng và bảo vệ các di sản văn hóa. Hãy giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, sống đẹp với những phong tục, truyền thống tốt đẹp của ông cha. Đặc biệt, thế hệ trẻ cần sáng tạo để hiện đại hóa những giá trị truyền thống, biến tà áo dài, làn điệu dân ca, món ăn Việt... thành những sản phẩm văn hóa đương đại, lan tỏa mạnh mẽ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phê phán lối sống lai căng, sính ngoại, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc của một bộ phận giới trẻ hiện nay.
Tóm lại, trong hành trình hội nhập toàn cầu, việc giữ gìn bản sắc dân tộc chính là giữ lấy hồn cốt, linh hồn của dân tộc. Nó là la bàn định hướng để chúng ta tiến ra biển lớn mà không bị lạc lối. Là những học sinh - chủ nhân tương lai của đất nước, chúng ta hãy trở thành những công dân toàn cầu năng động, nhưng trong tim vẫn cháy mãi một tình yêu, một niềm tự hào sâu sắc với những giá trị tinh thần mà cha ông đã dày công vun đắp.




