Đề thi giữa kì 1 Ngữ Văn 12 - Cánh diều

Đề thi giữa kì 1 Văn 12 Cánh diều - Đề số 6

Tải về

Đề thi giữa kì 1 Văn 12 bộ sách Cánh diều đề số 6 được biên soạn theo hình thức trắc nghiệm và tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp

Tổng hợp đề thi giữa kì 1 lớp 12 tất cả các môn - Cánh diều

Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh

Quảng cáo
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Đề thi

ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ I

Môn: Ngữ văn lớp 12

Thời gian làm bài: 90 phút - Không kể thời gian phát đề

 

I. ĐỌC HIỂU

Đọc văn bản sau:

(Tóm tắt trước đoạn trích: Trong ấp (huyện) có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia, tuổi trẻ mộ đạo, nghe nói trên núi Lao Sơn(1) có một vị tiên, liền quẩy tráp tới thăm. Thấy đạo lí huyền diệu, họ Vương quyết định ở và  tôn vị đạo sĩ ấy làm thầy. Sau hơn một tháng phải làm việc, họ Vương tay chân phỏng mọng, có bụng muốn về….)

[1] Một buổi chiều, về đến quản, thấy đạo sĩ đang ngồi uống rượu với hai người khách. Trời đã tối mà chưa thấy thắp đèn, đốt lửa gì cả. Đạo sĩ bèn cắt một miếng giấy tròn như tấm gương, dán lên vách. Phút chốc, ánh trăng vằng vặc từ trên vách chiếu xuống, sáng rõ cả ngọn cỏ, sợi tơ. Bọn học trò chạy quanh hầu hạ. 

Một người khách nói: 

- Đêm nay trời đẹp, cùng nhau vui uống, nên cho ai nấy đều vui. 

Bèn cầm hồ rượu trên bàn, rót cho bọn học trò đứng hầu, dặn mọi người nên uống thật say. Vương nghĩ bụng hồ rượu nhỏ như thế mà chia ra bảy, tám người làm sao cho đủ. Thấy bọn chúng, đứa cầm chén, đứa vác chậu, tranh nhau uống trước, như sợ mất hết, không tới lượt mình. Vậy mà rót hết chén này đến chén khác vẫn chẳng thấy rượu vơi đi chút nào, bụng thầm lấy làm lạ. 

Bỗng một vị khách nói: 

- Dưới trăng đẹp mà uống suông mãi cũng buồn. Sao chẳng mời chị Hằng chơi? 

Đạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa, vứt vào giữa Mặt Trăng. Bỗng thấy một người đẹp từ trong bóng sáng bước ra: lúc mới đến, chưa đầy một thước, mà vừa đặt chân từ trong bởi cao lớn như người thường, lưng thon thả, cổ trắng muốt, áo quần phấp phới, uyển chuyển múa khúc Nghê Thường. [...]

[2] Vương thích lắm, đem lòng kính mộ đạo sĩ, bụng muốn về cũng tiêu tan. Lại qua một tháng nữa, khổ không kham, mà đạo sĩ vẫn chưa truyền cho một phép gì. Sốt ruột quá, bèn lên cáo từ, xin về: 

- Đệ tử qua mấy trăm dặm đường tới xin học thầy; dẫu chẳng học được cái đạo trường sinh bất tử, cũng mong thầy dạy cho chút gì gọi là há chút lòng cầu học. Thể mà qua hai, ba tháng, chỉ những sáng đi kiếm củi, tối lại trở về. Hồi ở nhà, đệ từ chưa bao giờ khổ như thế. 

Đạo sĩ cười, bảo: 

- Ta đã nói trước là anh không chịu nổi khó nhọc, nay đã quả nhiên. Sáng mai, sẽ cho người dẫn anh về. 

Vương lại nài nỉ: 

- Đệ tử làm lụng đã nhiều, xin thầy dạy cho một thuật mọn, khỏi phụ công lao đệ tử lặn lội tới đây. Đạo sĩ hỏi muốn cầu thuật gì, Vương nói: Thường thấy thầy đi đâu, tường vách không ngăn nổi, chỉ xin một phép ấy cũng đủ lắm. Đạo sĩ cười, nhận lời. Bèn dạy cho phép bắt quyết(4), bảo miệng đọc mấy câu thần chú, rồi hô: “Vào đi! Vào đi!”. Vương đối mặt với bức tường, nhưng ngần ngừ không dám vào. Đạo sĩ lại hô rằng: 

- Cứ vào đại thử coi!

Vương theo lời, thong thả tiến lại, nhưng đến tường bị vấp. Đạo sĩ bảo cúi đầu, vào thật nhanh, đừng rụt rè. Vương bước xa bức tường mấy bước, đọc câu thần chú, bước nhanh tới, cảm thấy như chỗ trống không. Quay nhìn lại thì đã thấy mình ở bên kia tường. Mừng quá, vào lạy tạ xin về. 

Đạo sĩ nói: 

- Về nhà phải giữ gìn đứng đắn; không thể thì phép không nghiệm nữa đâu. 

Nói rồi, cấp tiền cho Vương ăn đường mà về. 

Đến nhà, chàng khoe đã gặp tiên, tường vách dày đến đâu cũng không ngăn nổi. Vợ không tin. Vương theo như cách đạo sĩ đã dạy, cách tường mấy bước,cúi đầu chạy ù vào. Đầu đập tường cứng ngã lăn đùng. Vợ nâng dậy, nhìn xem, thấy trản sưng bươu bằng quả trứng. Vợ chế giễu mãi. Vương vừa thẹn vừa tức, chửi mãi lão đạo sĩ bất lương. 

(Bồ Tùng Linh, Liêu trai chí dị (Nguyễn Đức Lân dịch), NXB Văn học, Hà Nội, 2006, 

tr. 20–23)

(1) Núi Lao Sơn: ngọn núi nổi tiếng ở phía đông nam tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. 

(2) Đạo sĩ: người tu tiên. 

(3) Bồ đoàn: chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn, để người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ.

(4) Bắt quyết: dùng ngón tay đan chéo vào nhau kết thành chữ để làm phép.

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1: Xác định thể loại của đoạn trích trên.

Câu 2: Theo đoạn trích [1], sau khi đạo sĩ lấy một chiếc đũa, vứt vào giữa Mặt Trăng, điều gì đã xảy ra?

Câu 3: Chỉ ra và nêu tác dụng của yếu tố kì ảo được sử dụng trong đoạn [2].

Câu 4: Hành động "chửi mãi lão đạo sĩ bất lương" của Vương sau khi thất bại ở nhà cho thấy điều gì về tính cách của nhân vật này?

Câu 5: Từ kết cục của nhân vật họ Vương, anh/chị rút ra thông điệp gì về con đường tu luyện, rèn giũa bản thân?

II. VIẾT 

Câu 1: 

Anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) chỉ ra sự đối lập trong tính cách và phẩm chất giữa nhân vật đạo sĩ và nhân vật họ Vương.

Câu 2: 

Martin Luther King từng nói: Trong thế giới này, chúng ta không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cả vì sự im lặng đáng sợ của người tốt. 

Thế nhưng hiện nay, một bộ phận học sinh đang lựa chọn cách ứng xử im lặng trước cái xấu. Hãy viết bài văn nghị luận bàn về giải pháp khiến các bạn trẻ thay đổi cách ứng xử đó.

 

— Hết — 

Lời giải

I. Đọc hiểu

Câu 1:

Phương pháp:

Vận dụng kiến thức về đặc điểm các yếu tố của các thể loại đã học từ đó xác định 

Cách giải:

Thể loại: Truyện truyền kì

Câu 2:

Phương pháp:

Đọc kỹ đoạn văn [1] và tìm thông tin mô tả sự việc xảy ra ngay sau đó.

Cách giải:

Theo đoạn trích [1], sau khi đạo sĩ lấy một chiếc đũa vứt vào giữa Mặt Trăng (do ông tạo ra từ giấy), một người đẹp (chị Hằng) từ trong bóng sáng bước ra. Lúc đầu, người đẹp chỉ cao chưa đầy một thước, nhưng khi bước ra ngoài thì cao lớn như người thường, với vẻ đẹp yểu điệu, cổ trắng muốt, áo quần phấp phới, và uyển chuyển múa điệu "Nghê Thường".

Câu 3:

Phương pháp:

Vận dụng kiến thức về đặc điểm yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì 

Cách giải:

- Yếu tố kì ảo: Vương được đạo sĩ dạy cho phép xuyên tường.

- Tác dụng:

+ Tạo sự li kì, hấp dẫn cho câu chuyện .

+ Là phép thử đạo đức: Khẳng định bài học phép thuật chỉ linh nghiệm khi con người có đức hạnh, "giữ gìn đứng đắn".

Câu 4:

Phương pháp:

Suy luận từ hành động của nhân vật để rút ra tính cách.

Cách giải:

- Hành động này cho thấy Vương là người:

+ Thiếu trách nhiệm, đổ lỗi cho người khác.

+ Ích kỷ, vô ơn.

+ Bản chất thực dụng, tu đạo chỉ vì mục đích vụ lợi.

Câu 5: 

Phương pháp:

Căn cứ vào nội dung văn bản kết hợp liên hệ bản thân để rút ra thông điệp phù hợp 

Gợi ý:

- Tu luyện phải kiên trì, vượt khó, không thể nóng vội, ngại khổ.

- Mục đích phải trong sáng (tu tâm) chứ không phải vì lợi ích vật chất hay quyền năng.

- Đạo đức là nền tảng, mọi tài năng, phép lạ đều phải xây dựng trên đức hạnh.

Cách giải:

Từ kết cục thất bại của nhân vật họ Vương, chúng ta rút ra bài học sâu sắc về con đường tu luyện và rèn giũa bản thân. Trước hết, mọi sự thành công đều đòi hỏi một quá trình kiên trì, nhẫn nại, không thể nóng vội, ngại khó. Vương thất bại vì anh ta chỉ muốn có phép lạ mà không chịu được những tháng ngày lao động khổ luyện. Hơn thế, động cơ tu luyện phải xuất phát từ việc tu tâm, dưỡng tính chứ không phải vì mục đích thực dụng, vụ lợi. Cuối cùng, yếu tố then chốt làm nên giá trị đích thực chính là đạo đức. Phép thuật của Vương mất linh nghiệm vì anh không "giữ gìn đứng đắn", minh chứng rằng mọi tài năng, năng lực dù lớn đến đâu cũng sẽ trở nên vô nghĩa nếu không được xây dựng trên một nền tảng đạo đức vững vàng.

II. Viết 

Câu 1:

Phương pháp:

* Yêu cầu hình thức:

- Đảm bảo hình thức đoạn văn, dung lượng khoảng 200 chữ

- Diễn đạt trôi chảy, mạch lạc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

* Yêu cầu nội dung:

- Mở đoạn: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và hai nhân vật 

- Thân đoạn:

+ Về mục đích sống/ sự tu dưỡng:

  • Đạo sĩ: Là hiện thân của sự tu luyện kiên định, sống thuận theo tự nhiên, coi trọng đạo đức 
  • Họ Vương: Mộ đạo nhưng thiếu căn cơ, dễ nản lòng, tu luyện với mục đích thực dụng 

+ Về thái độ với công việc/ khổ luyện:

  • Đạo sĩ: Am hiểu và tôn trọng quy luật của sự tu luyện 
  • Họ Vương: Lười nhác, ngại khổ, chỉ muốn có thành quả ngay lập tức mà không muốn trải qua quá trình 

+ Về bản lĩnh và trí tuệ:

  • Đạo sĩ: Bản lĩnh vững vàng, trí tuệ thâm sâu, hành xử có chủ đích
  • Họ Vương: Nhẹ dạ, cả tin, thiếu sự suy xét, không có chính kiến

+ Về cách ứng xử:

  • Đạo sĩ: Điềm tĩnh, bao dung, có trách nhiệm với đệ tử 
  • Họ Vương: Nông nổi, ích kỷ, vô ơn 

- Kết đoạn: 

+ Đánh giá về ý nghĩa của sự đối lập.

+ Khẳng định sự đối lập này không phải ngẫu nhiên mà là một thủ pháp nghệ thuật đặc sắc.

Cách giải:

Trong đoạn trích "Liêu trai chí dị", tác giả Bồ Tùng Linh đã xây dựng thành công cặp nhân vật đạo sĩ và họ Vương với những nét tính cách đối lập hoàn toàn, tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm. Trước hết, về mục đích sống và sự tu dưỡng, đạo sĩ là hiện thân của sự tu luyện kiên định, sống thuận theo tự nhiên và luôn coi trọng đạo đức như kim chỉ nam. Ngược lại, họ Vương tuy mộ đạo nhưng thiếu căn cơ vững chắc, dễ dàng nản lòng trước khó khăn, và động cơ tu luyện mang tính thực dụng rõ rệt. Về thái độ với công việc và khổ luyện, vị đạo sĩ tỏ ra am hiểu và tôn trọng quy luật của sự tu luyện, xem đó là hành trình rèn giũa bản thân. Trong khi đó, họ Vương lại bộc lộ sự lười nhác, ngại khổ, chỉ mong có được thành quả ngay lập tức mà không muốn trải qua quá trình gian nan. Ở phương diện bản lĩnh và trí tuệ, đạo sĩ hiện lên với bản lĩnh vững vàng, trí tuệ thâm sâu, mỗi hành động đều có chủ đích rõ ràng. Còn họ Vương lại thể hiện sự nhẹ dạ, cả tin, thiếu đi sự suy xét thấu đáo và không có chính kiến vững vàng. Cuối cùng, trong cách ứng xử, đạo sĩ luôn điềm tĩnh, bao dung và có trách nhiệm với đệ tử, ngay cả khi phải nói lời từ biệt. Họ Vương thì hoàn toàn trái ngược: nông nổi, ích kỷ và thậm chí là vô ơn khi thất bại. Sự đối lập này không hề ngẫu nhiên mà là một thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, góp phần làm nổi bật bài học sâu sắc về con đường tu dưỡng chân chính.

Câu 2:

Phương pháp:

* Hình thức: Bài văn nghị luận xã hội hoàn chỉnh (Mở bài, Thân bài, Kết bài), dung lượng khoảng 600 chữ.

* Nội dung:

I. Mở bài

- Dẫn dắt vấn đề từ câu nói của Martin Luther King và thực trạng im lặng của một bộ phận giới trẻ.

- Nêu vấn đề nghị luận

II. Thân bài

1. Giải thích

- "Lời nói và hành động của kẻ xấu": Là nguyên nhân trực tiếp gây ra đau khổ, bất công.

- "Sự im lặng đáng sợ của người tốt": Là thái độ thờ ơ, vô cảm, không dám lên tiếng bảo vệ lẽ phải, chống lại cái xấu. 

2. Thực trạng

- Trong học đường: nhiều học sinh thấy bạn bị bắt nạt, gian lận, nói xấu, bạo lực học đường… nhưng chọn cách làm ngơ.

- Ngoài xã hội: chứng kiến hành vi tiêu cực (xả rác, gian dối, tham lam) nhưng không dám hoặc không muốn phản đối.

- …

3. Nguyên nhân 

- Tâm lý sợ hãi: Sợ bị trả thù, bị cô lập, trở thành mục tiêu tiếp theo.

- Tâm lý đám đông

- Thiếu kỹ năng và phương pháp trong giải quyết tình huống: Không biết lên tiếng như thế nào cho hiệu quả và an toàn.

- Quan niệm sai lầm: "Im lặng là vàng", "chuyện của ai người nấy lo".

- Sự thiếu gương mẫu từ người lớn.

4. Hậu quả

- Với cá nhân:

+ Khiến bản thân trở nên vô cảm, yếu đuối, mất đi lòng dũng cảm.

+ Có thể trở thành nạn nhân tiếp theo của cái xấu.

- Với xã hội:

+ Cái xấu được thể lan rộng, không bị kiểm soát.

+ Môi trường sống và học tập trở nên tiêu cực, bất an.

+ Lẽ phải và công bằng bị chà đạp.

5. Giải pháp

- Với cá nhân:

+ Rèn luyện tinh thần dũng cảm, thái độ sống tích cực.

+ Học cách nói “không” với cái xấu; biết tìm sự hỗ trợ từ thầy cô, cha mẹ, bạn bè khi cần.

+ Nâng cao kỹ năng giao tiếp, ứng xử để phản ứng phù hợp, văn minh.

- Với nhà trường:

+ Tăng cường giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, kỹ năng phản biện.

+ Tạo môi trường an toàn, khuyến khích học sinh lên tiếng.

- Với gia đình và xã hội:

+ Cha mẹ làm gương, khích lệ con cái dám bảo vệ lẽ phải.

+ Xây dựng môi trường xã hội công bằng, có chế tài bảo vệ người lên tiếng.

III. Kết bài

- Khẳng định ý nghĩa của việc thay đổi thái độ im lặng thành hành động tích cực.

- Kêu gọi sự chung tay của toàn xã hội trong việc tạo ra môi trường sống tốt đẹp hơn.

Cách giải:

Bài viết tham khảo:

Martin Luther King từng đưa ra một nhận định sâu sắc: “Trong thế giới này, chúng ta không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cả vì sự im lặng đáng sợ của người tốt”. Câu nói ấy như một lời cảnh tỉnh vang vọng qua thời gian, đặc biệt có ý nghĩa khi ta nhìn vào thực trạng của một bộ phận giới trẻ hiện nay: thờ ơ, im lặng trước cái xấu. Làm thế nào để thay đổi điều này? Đó là câu hỏi đòi hỏi một câu trả lời bằng những giải pháp thiết thực.

Trước hết, cần hiểu rõ ý nghĩa trong lời cảnh báo của Martin Luther King. “Lời nói và hành động của kẻ xấu” chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra những đau khổ, bất công và hỗn loạn trong xã hội. Nhưng “sự im lặng đáng sợ của người tốt” mới là điều khiến chúng ta phải giật mình. Nó không đơn thuần là không nói gì, mà là một thái độ thờ ơ, vô cảm, hèn nhát, từ chối đương đầu, từ chối bảo vệ lẽ phải. Sự im lặng ấy “đáng sợ” bởi nó trở thành bức tường thành vô hình bao bọc, dung túng cho cái xấu hoành hành, khiến lương tâm xã hội dần bị bào mòn.

Thực tế đáng buồn là sự im lặng ấy đang hiện hữu ngay trong môi trường học đường và ngoài xã hội. Trong trường học, không khó để bắt gặp hình ảnh những học sinh đứng nhìn bạn mình bị bắt nạt, bị cô lập, hay thậm chí chứng kiến những hành vi gian lận trong thi cử, nói xấu nhau trên mạng xã hội… nhưng lại chọn cách làm ngơ. Ngoài xã hội, nhiều bạn trẻ chứng kiến cảnh xả rác bừa bãi, hành vi gian dối, bất công… nhưng cũng chỉ dừng lại ở những cái lắc đầu ngao ngán mà không dám lên tiếng. 

Sự im lặng ấy xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Đó có thể là nỗi sợ hãi chính đáng: sợ bị trả thù, sợ trở thành mục tiêu tiếp theo, sợ bị cô lập giữa đám đông. Đó cũng có thể là do tâm lý đám đông, “cha chung không ai khóc”, và quan trọng hơn, là sự thiếu hụt những kỹ năng cần thiết để lên tiếng một cách an toàn và hiệu quả. Thêm vào đó, một số quan niệm sai lầm như “im lặng là vàng”, “chuyện của ai người nấy lo” vô tình trở thành chiếc mặt nạ biện minh cho sự hèn nhát.

Hậu quả của sự im lặng này là vô cùng nghiêm trọng. Với cá nhân, nó khiến các bạn trẻ trở nên vô cảm, mất đi lòng dũng cảm và sự tự trọng. Một ngày nào đó, chính họ có thể trở thành nạn nhân tiếp theo trong một vòng tròn bạo lực và bất công không hồi kết. Với xã hội, sự im lặng của người tốt chính là liều thuốc độc giết chết lẽ phải. Nó tạo ra một môi trường sống ngột ngạt, nơi cái xấu được dịp lộng hành, công lý bị chà đạp, và các giá trị đạo đức chuẩn mực dần bị đảo lộn.

Vậy, đâu là những giải pháp để phá vỡ bức tường im lặng ấy? Trước hết, giải pháp phải bắt nguồn từ chính mỗi cá nhân. Mỗi bạn trẻ cần ý thức rằng lên tiếng không phải là hành động của kẻ hiếu chiến, mà là trách nhiệm của một công dân có lương tri. Hãy rèn luyện cho mình lòng dũng cảm, dám đối mặt với sự sợ hãi. Đồng thời, cần trau dồi các kỹ năng sống, học cách nói “không” với cái xấu một cách văn minh, thuyết phục, và biết tìm kiếm sự hỗ trợ từ thầy cô, gia đình, bạn bè hoặc các cơ quan chức năng khi cần thiết. Tuy nhiên, để các bạn trẻ có đủ dũng khí và kỹ năng, vai trò của gi

 


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu
Tải về
  • Đề thi giữa kì 1 Văn 12 Cánh diều - Đề số 7

    Đề thi giữa kì 1 Văn 12 bộ sách Cánh diều đề số 7 được biên soạn theo hình thức trắc nghiệm và tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp

  • Đề thi giữa kì 1 Văn 12 Cánh diều - Đề số 8

    Đề thi giữa kì 1 Văn 12 bộ sách Cánh diều đề số 8 được biên soạn theo hình thức trắc nghiệm và tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp

  • Đề thi giữa kì 1 Văn 12 Cánh diều - Đề số 9

    Đề thi giữa kì 1 Văn 12 bộ sách Cánh diều đề số 9 được biên soạn theo hình thức trắc nghiệm và tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp

  • Đề thi giữa kì 1 Văn 12 Cánh diều - Đề số 5

    Đề thi giữa kì 1 Văn 12 bộ sách Cánh diều đề số 5 được biên soạn theo hình thức trắc nghiệm và tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp

  • Đề thi giữa kì 1 Văn 12 Cánh diều - Đề số 4

    Đề thi giữa kì 1 Văn 12 bộ sách Cánh diều đề số 4 được biên soạn theo hình thức trắc nghiệm và tự luận có lời giải chi tiết giúp các em ôn tập hiệu quả chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 12 - Cánh diều - Xem ngay

Group 2K8 ôn Thi ĐGNL & ĐGTD Miễn Phí