Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 110 SGK Ngữ văn 11 tập 2 Cánh diều - chi tiết


Phân tích đặc điểm của ngôn ngữ nói được thể hiện trong đoạn kịch Tôi muốn được là tôi toàn vẹn ở các trang 104 – 105. Nhận xét về những đặc điểm của ngôn ngữ viết trong các đoạn văn.

GÓP Ý HAY - NHẬN NGAY QUÀ CHẤT

Gửi góp ý cho Loigiaihay.com và nhận về những phần quà hấp dẫn


Video hướng dẫn giải

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Câu 1

Câu 1 (trang 110, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Phân tích đặc điểm của ngôn ngữ nói được thể hiện trong đoạn kịch Tôi muốn được là tôi toàn vẹn ở các trang 104 – 105. 


Phương pháp giải:

Gợi nhớ các đặc điểm của ngôn ngữ nói (trực tiếp hay gián tiếp; các từ ngữ mang tính khẩu ngữ; cử chỉ điệu bộ…)


Lời giải chi tiết:

- Đặc điểm ngôn ngữ nói:

+ Đối thoại trực tiếp giữa Hồn Trương Ba và Xác Hàng Thịt. 

+ Xưng hô: Ta; tôi với ông.

+ Từ tình thái: nhỉ, này, hà hà, nào, trời.

+ Kết hợp với cử chỉ điệu bộ: bịt tai lại, lắc đầu, buồn rầu, thì thầm, như tuyệt vọng


Câu 2

Câu 2 (trang 110, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Nhận xét về những đặc điểm của ngôn ngữ viết trong các đoạn văn. 

a) Trong mười năm ấy, thơ mới đã tranh đấu gắt gao với thơ cũ, một bên giành quyền sống, một bên giữ quyền sống. Cuộc tranh đấu kéo dài cho đến ngày thơ mới toàn thắng. Trong sự thắng lợi ấy, cũng có công những người tả xung hữu đột nơi chiến trường, nhưng trước hết là công những nhà thơ mới. Tôi không so sánh các nhà thơ mới với Nguyễn Du để xem ai hơn ai kém. Đời xưa có thể có những bậc kì tài đời này không sánh kịp. Đừng lấy một người sánh với một người. Hãy sánh thời đại cùng thời đại. Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có thời đại phong phủ như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên,... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. (Hoài Thanh)

b) Việc Nguyễn Du sử dụng tiếng mẹ đẻ để viết “Truyện Kiều” được hậu thể đánh giả rất cao. Như con ong hút nhụy của muôn loài hoa để làm mật, nghệ sĩ Tổ Như đã kết hợp nhuần nhuyễn vốn ngôn ngữ dân gian và vốn ngôn ngữ bác học để tạo nên ngôn ngữ “Truyện Kiều” “như làm bằng ánh sáng vậy” (Nguyễn Đình Thi), “là một viên ngọc quý cơ hồ không có vết, là một tiếng đàn lạ không bao giờ lỡ nhịp, ngưng cung” (Hoài Thanh). (Hoàng Hữu Yên)

Phương pháp giải:

Gợi nhớ các đặc điểm của ngôn ngữ viết (trực tiếp hay gián tiếp; các từ ngữ được chọn lọc; các câu diễn đạt mạch lạc, chặt chẽ…)


Lời giải chi tiết:

a) 

- Được miêu tả gián tiếp: Có ý kiến của Hoài Thanh.

- Các câu được diễn đạt mạch lạc, chặt chẽ về vấn đề sự tranh đấu gắt gao giữa thơ mới và thơ cũ. 

- Có các câu dài, nhiều thành phần: 

+ Trong sự thắng lợi ấy, cũng có công của những người…công những nhà thơ mới.

+ Chưa bao giờ người ta thấy…băn khoăn như Xuân Diệu.

b) 

- Được miêu tả gián tiếp: Có ý kiến của nhiều người Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh, Hoàng Hữu Yên. 

- Các câu được diễn đạt mạch lạc, chặt chẽ về vấn đề Nguyễn Du sử dụng tiếng mẹ đẻ viết Truyện Kiều được mọi người đánh giá cao.  

- Có các câu dài, nhiều thành phần: 

+ Như con ong hút nhụy của muôn loài hoa…(Hoài Thanh), (Hoàng Hữu Yên). 


Câu 3

Câu 3 (trang 111, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Phân tích đặc điểm của ngôn ngữ viết hoặc ngôn ngữ nói thể hiện ở lời của người kể và của các nhân vật trong đoạn văn.

Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hẳn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hẳn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại để ra thân hắn cho hẳn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hẳn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hẳn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Có mà trời biết! Hẳn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết... (Nam Cao)

Phương pháp giải:

Gợi nhớ các đặc điểm của ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói (trực tiếp hay gián tiếp; các từ ngữ được chọn lọc hay mang tính khẩu ngữ, tình thái; các câu diễn đạt mạch lạc, chặt chẽ nhiều thành phần)


Lời giải chi tiết:

- Ngôn ngữ viết: Lời nói được miêu tả gián tiếp của tác giả về lời nói, những tiếng chửi của Chí Phèo. 

- Ngôn ngữ nói: Lời nói được miêu tả trực tiếp về lời của dân làng khi nghe Chí Phèo chửi. 


Câu 4

Câu 4 (trang 111, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):

Dựa vào nội dung truyện ngắn “Chí Phèo” (Nam Cao), hãy viết một đoạn kịch ngắn hoặc một đoạn đối thoại giữa các nhân vật thể hiện được ngôn ngữ nói.

Phương pháp giải:

Gợi nhớ các đặc điểm của ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói (trực tiếp hay gián tiếp; các từ ngữ được chọn lọc hay mang tính khẩu ngữ, tình thái; các câu diễn đạt mạch lạc, chặt chẽ nhiều thành phần). Từ đó chuyển đổi từ ngôn ngữ viết sang ngôn ngữ nói (đoạn kịch). 


Lời giải chi tiết:

* Đoạn kịch về tiếng chửi của Chí Phèo: 

Ngày hôm đó, cũng như bao ngày khác, Chí Phèo say khướt và bắt đầu chửi:

- Này Ông Trời ơi, sao ông lại để tôi khổ thế này? Ông xuống đây tôi bảo ngay. (vừa uống rượu vừa chửi)

Người dân xung quanh bắt đầu quay vào nói chuyện với nhau vì tên Chí Phèo lại lên cơn:

- Gớm, ngày nào cũng say mà nó chửi trời làm gì không biết? (tức giận)

- Kệ bố nó, Trời có phải nhà mình đâu. (tặc lưỡi nói với sang)

- Nói bé bé thôi để nó không để ý đến mình. (Thì thầm)



Bình chọn:
4 trên 5 phiếu

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 11 - Cánh diều - Xem ngay

Tham Gia Group Dành Cho Lớp 11 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí