So sánh, đánh giá về hình thức nghệ thuật cách thể hiện nỗi nhớ trong Tây Tiến và Tiếng hát con tàu lớp 12>
Nỗi nhớ là một đề tài quen thuộc trong thơ ca kháng chiến, thể hiện tình cảm sâu nặng với quê hương, đất nước và con người.
Tổng hợp đề thi học kì 2 lớp 12 tất cả các môn - Kết nối tri thức
Toán - Văn - Anh - Hoá - Sinh - Sử - Địa
Dàn ý
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả và 2 tác phẩm.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung:
- Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp với hồn thơ hào hoa, lãng mạn thấm đượm tình đồng bào đồng chí. “Tây Tiến” là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
- Chế Lan Viên là một nhà thơ tài năng của nền văn học Việt Nam. Ông có một phong cách nghệ thuật rõ nét, độc đáo đó là những suy tưởng, triết lý đậm chất trí tuệ và tính hiện đại. Đặc biệt, nhà thơ còn có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật xây dựng hình ảnh thơ. Bài thơ "Tiếng hát con tàu" được ông sáng tác năm 1960, thời gian cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế.
- Giới thiệu, trích dẫn 2 đoạn thơ.
2. Cảm nhận:
a. Đoạn thơ trong bài "Tây Tiến":
- Bức tranh thứ nhất mở ra bằng cảnh đêm liên hoan lửa trại biên giới:
+ Khổ thơ với bút pháp lãng mạn, diễn tả linh hoạt đêm “ hội đuốc hoa”với ánh sáng, màu sắc, một buổi liên hoan đậm tình quân dân. Cái tiếng reo vui, đầy ngạc nhiên “ kìa” hào hứng trước cái lạ của xứ lạ, trang phục lạ, ..
+ Cái nồng ấm và tình tứ là sức sống của một dân tộc , biến chàng trai thành thi sĩ “ xây hồn thơ”. Đó là sức sống của những tình cảm lâu nay bị kìm hãm, nay được hồi sinh trước vẻ đẹp của cuộc sống.
+ Trung tâm là hình ảnh các cô gái với cử chỉ e thẹn, nét nhạc chơi vơi cùng điệu Lăm vông của cô gái Lào làm say đắm chàng trai Hà Thành, biến họ thành thi sĩ.
+ Khổ thơ có giọng điệu hài hòa, êm ái, phù hợp với không khí ấm áp của bản làng và tình quân dân thắm thiết.
- Bức tranh thứ hai diễn tả vẻ đẹp của con người và cảnh vật Tây Bắc trong cảnh hoàng hôn sông nước Châu Mộc:
+ Bao trùm lên khổ thơ là vẻ đẹp hài hòa giữa con người và thiên nhiên Tây Bắc. Ngôn ngữ cô đọng hàm súc, “ chiều sương ấy” gói trọn cả thời gian chiều và không gian sương đầy ấn tượng. Tay lái tài hoa làm tiêu tan vẻ dữ dội của dòng nước lũ, tạo nên chất thơ, cũng là cách thơ hóa cái dữ dội, cái hùng vĩ.
+ Thiên nhiên hữu linh, có linh hồn, dáng người lái thuyền với tay chèo uyển chuyển, hài hòa với dáng hoa “ đong đưa”…
=> Đoạn thơ diễn tả một vẻ đẹp khác của thiên nhiên, con người miền Tây, đó là vẻ thơ mộng, mơ màng của thiên nhiên và tình quân dân thắm thiết, đậm đà.
b. Khổ thơ trong bài "Tiếng hát con tàu":
- Nỗi nhớ về thiên nhiên "bản sương giăng, đèo mây phủ" và con người có ân tình sâu nặng lắm mới “Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?”. Điệp từ "nhớ" và câu hỏi tu từ tô đậm nỗi nhớ, khiến tình cảm càng sâu nặng, thiết tha.Món quà ý nghĩa nhất cho người thân yêu
- Từ thực tế cuộc sống, ý thơ đưa tới suy ngẫm khái quát, chứa đựng một triết lý sâu sắc, biểu hiện một quy luật tình cảm, quy luật của trái tim:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
- Tình yêu đôi lứa trở nên kì diệu, tạo sự gắn bó, thiết tha không chỉ với con người mà còn gắn bó với cảnh vật làng quê – đó là quy luật tình cảm của con người. Nói “đông về nhớ rét” thực ra là nhớ đến hơi ấm của tình yêu khi mùa đông lạnh lẽo trở về. Các hình ảnh “cánh kiến hoa vàng”, “ chim rừng long trở biếc”, đều là những quan sát chắt lọc từ núi rừng Tây Bắc góp phần làm phong phú cho các biểu tượng tình yêu của văn học. Tình yêu đôi lứa chân chính luôn gắn với tình yêu quê hương đất nước.
- Suy tư sâu sắc về những chuyển hóa kì diệu của tâm hồn con người được đúc kết thành triết lí: "Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương". Đó là điều kì diệu mà tình cảm con người đã làm được để biến kỉ niệm miền đất mình từng đi qua thành tâm hồn của chính mình.
=> Trở về với Tây Bắc, ngọn nguồn của cảm hứng sáng tạo, của cuộc sống chân chính, tất cả trở thành tình yêu bất tận, nỗi nhớ kỉ niệm gắn bó với nhà thơ.
3. So sánh hai đoạn thơ:
- Nét chung:
+ Hai đoạn thơ đều thể hiện nỗi nhớ da diết về đất và người Tây Bắc; thể hiện tình cảm thắm thiết giữa các nhà thơ với đồng bào Tây Bắc.
+ Cả hai cách cảm nhận đều thể hiện lối sống tình nghĩa thủy chung với quá khứ. Từ đó, khơi dậy niềm tự hào về nhân dân, đất nước trong lòng độc giả.
+ Cả 2 tác giả đều thành công trong sáng tạo hình ảnh thơ.
(Lí do: cả 2 nhà thơ đều có quãng đời gắn bó với mảnh đất Tây Bắc)
- Nét riêng:
+ Đoạn thơ trong "Tây Tiến" tập trung hướng về vẻ đẹp lãng mạn của thiên nhiên và con người miền Tây Bắc trong con mắt của một chiến sĩ đã từng gắn bó với cuộc sống con người nơi đây. Qua đó, làm nổi bật hình ảnh những người lính trẻ trung, hồn nhiên, vô tư, tâm hồn lạc quan, yêu đời.
+ Đoạn thơ trong "Tiếng hát con tàu" bộc lộ nỗi nhớ về núi rừng, con người Tây Bắc để từ đó khái quát lên thành chân lí về quy luật tình cảm của con người.
+ Đoạn thơ trong "Tây Tiến" sử dụng thể thơ 7 chữ, sáng tạo các hình ảnh thực; đoạn còn lại sử dụng thể thơ tự do, hình ảnh có tính khái quát cao.
(Lí do: do đặc trưng phong cách nghệ thuật riêng của mỗi tác giả).
=> Chính những cảm nhận riêng đó đã góp phần tạo nên sức lôi cuốn, hấp dẫn của từng bài thơ cũng như sự phong phú của thơ ca viết về tình yêu quê hương đất nước mọi thời đại.
4. Đánh giá chung:
- Hai tác phẩm đều thể hiện nỗi nhớ da diết của những con người đã từng gắn bó với nhân dân trong kháng chiến. Tất cả làm nổi bật vẻ đẹp tình quân dân sâu nặng, tình nghĩa thủy chung gắn bó trong cuộc sống.
- Qua đó, ta thấy được phong cách nghệ thuật của hai nhà thơ: Quang Dũng mang đến phong cách thơ lãng mạn, thanh lịch, tinh tế, phóng túng còn Chế Lan Viên mang phong cách suy tưởng, triết lí, giàu chất trí tuệ, hiện đại cùng nhiều sáng tạo phong phú, đa dạng, độc đáo về hình ảnh.
III. Kết bài
- Đánh giá lại vấn đề: tác giả xây dựng hình tượng nhân vật của mình khác nhau, nhưng đều có điểm chúng trong tư tưởng nhân đạo.
Bài siêu ngắn Mẫu 1
Nỗi nhớ là một đề tài quen thuộc trong thơ ca kháng chiến, thể hiện tình cảm sâu nặng với quê hương, đất nước và con người. Hai bài thơ tiêu biểu cho đề tài này là “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên. Dù cùng viết về nỗi nhớ gắn với Tây Bắc – vùng đất thiêng liêng của kháng chiến – nhưng mỗi bài thơ lại có cách thể hiện riêng, phù hợp với cảm hứng sáng tác và phong cách nghệ thuật của từng nhà thơ.
Trong “Tây Tiến”, nỗi nhớ được thể hiện qua cái nhìn của một người lính từng sống và chiến đấu tại chiến trường miền Tây. Ngay từ câu thơ đầu tiên: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! / Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”, nỗi nhớ hiện lên tha thiết, day dứt. Quang Dũng nhớ về một vùng rừng núi hiểm trở nhưng đẹp đẽ, về những đồng đội gan dạ mà hào hoa, những kỷ niệm đời thường ấm áp giữa chiến tranh. Nét đặc biệt trong nghệ thuật của bài thơ là phong cách lãng mạn và bi tráng: sử dụng nhiều hình ảnh mạnh mẽ, giàu chất điện ảnh (“súng ngửi trời”, “áo bào thay chiếu anh về đất”), kết hợp với những câu thơ trầm lắng, gợi cảm xúc xót xa. Thể thơ bảy chữ và ngôn ngữ gợi hình giúp Quang Dũng truyền tải trọn vẹn vẻ đẹp lý tưởng của người lính Tây Tiến – kiêu hùng nhưng cũng rất đỗi trữ tình.
Khác với Quang Dũng, Chế Lan Viên trong “Tiếng hát con tàu” thể hiện nỗi nhớ từ góc nhìn của một người nghệ sĩ từng xa rời cách mạng, nay khao khát trở lại với nhân dân và Tổ quốc. Nỗi nhớ ở đây không chỉ là cảm xúc, mà còn là một lý tưởng sống, một khát vọng hòa nhập, dấn thân. Hình ảnh thơ mang nhiều biểu tượng: “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ”, “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?”, kết hợp với lời thơ trữ tình – chính luận giúp tác phẩm trở thành một bản tình ca sâu sắc về nhân dân và đất nước. Nghệ thuật sử dụng ẩn dụ, điệp từ, đối thoại nội tâm khiến cho nỗi nhớ trong “Tiếng hát con tàu” vừa cụ thể, vừa mang tầm khái quát lớn lao.
So sánh hai bài thơ, có thể thấy “Tây Tiến” thiên về cảm xúc lãng mạn, hình ảnh giàu chất họa, trong khi “Tiếng hát con tàu” nghiêng về chiều sâu suy tưởng, kết hợp giữa trữ tình và chính luận. Dù khác nhau về hình thức nghệ thuật, cả hai bài thơ đều thể hiện một điểm chung: nỗi nhớ gắn liền với tình yêu đất nước, tình cảm cách mạng và sự biết ơn sâu sắc với nhân dân.
“Tây Tiến” và “Tiếng hát con tàu” là hai cách thể hiện nỗi nhớ đặc sắc, làm phong phú thêm cho thơ ca thời kháng chiến. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của những con người sống, chiến đấu và viết bằng cả trái tim dành cho đất nước.
Bài siêu ngắn Mẫu 2
Trong dòng thơ kháng chiến chống Pháp, nỗi nhớ không chỉ là nỗi nhớ của riêng ai, mà trở thành sợi dây gắn kết con người với đất nước, với nhân dân, với lý tưởng cách mạng. Hai thi phẩm tiêu biểu thể hiện nỗi nhớ ấy bằng hai tiếng nói nghệ thuật riêng biệt là “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên. Cùng viết về miền Tây Bắc thân yêu, nhưng mỗi nhà thơ lại gửi gắm vào nỗi nhớ một tâm thế, một phong cách và một cảm xúc khác nhau.
Quang Dũng nhớ Tây Tiến như nhớ một phần máu thịt của đời mình. Nỗi nhớ ấy không mơ hồ, mà hiện lên rõ nét qua những hình ảnh đặc trưng: núi rừng hiểm trở, đồng đội hào hùng, những cô gái miền núi e lệ bên ánh lửa trại. Bút pháp lãng mạn kết hợp với cảm hứng bi tráng đã tạo nên chất riêng cho thơ Quang Dũng. Anh không né tránh cái chết, mà nâng nó lên như một biểu tượng của lý tưởng và sự hy sinh cao đẹp: “Áo bào thay chiếu anh về đất / Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Những câu thơ giàu hình ảnh, ngôn ngữ vừa mộc mạc vừa bay bổng khiến nỗi nhớ trong “Tây Tiến” không chỉ da diết mà còn đầy chất anh hùng ca.
Trái lại, Chế Lan Viên mang đến một nỗi nhớ khác – nỗi nhớ hướng về nhân dân, về Tây Bắc như một nơi khai sinh lại tâm hồn cách mạng. Nếu như Quang Dũng nhớ Tây Tiến với tư cách người trong cuộc, thì Chế Lan Viên thể hiện nỗi nhớ như một lời tự vấn, một sự khao khát trở lại với nguồn cội. Bài thơ kết hợp giữa giọng điệu trữ tình và suy tư chính luận: “Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”, “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?”. Các hình ảnh mang tính biểu tượng sâu sắc như “con tàu”, “vành trăng”, “nhựa nóng của cần lao” tạo nên chiều sâu triết lý cho bài thơ. Hình ảnh nhân dân được khắc họa bình dị mà thiêng liêng, gợi một nỗi nhớ thấm đẫm tình cảm và lý tưởng.
Dưới góc nhìn nghệ thuật, cả hai bài thơ đều thành công trong việc tạo dựng hình ảnh nỗi nhớ giàu cảm xúc và chiều sâu tư tưởng. Nếu “Tây Tiến” là một bản giao hưởng của hình ảnh và âm thanh về chiến trường, thì “Tiếng hát con tàu” là khúc tâm tình của một người nghệ sĩ đi tìm lại mình trong nhân dân.
Dù thể hiện bằng hai phong cách khác nhau – một lãng mạn, một chính luận trữ tình – nhưng cả Quang Dũng và Chế Lan Viên đều đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bằng một nỗi nhớ lớn – nỗi nhớ đất nước, nhân dân và lý tưởng sống. Chính sự đa dạng trong nghệ thuật thể hiện ấy đã góp phần làm phong phú diện mạo của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Bài tham khảo Mẫu 1
Nỗi nhớ của người lính vốn là một điều gì đó thật đẹp. Nếu trong Tây Tiến, đó là nỗi nhớ tha thiết với vùng đất binh đoàn Tây Tiến – nơi nhân vật trữ tình đồng hành cùng những đồng đội, vượt bao gian khổ để tiến bước thì trong Tiếng hát con tàu, đó lại là nỗi nhớ Tây Bắc và tình yêu, sợi dây kết nổi kì lạ với con người nơi đây. Dòng cảm xúc và nỗi nhớ đã làm nên vẻ đẹp của hai bài thơ, để hai bài thơ trở thành tượng đài bất hủ của nền thơ ca cách mạng.
Đến với Tây Tiến, Đoạn đầu bài thơ chính là đoạn ghi lại những kỉ niệm những kỉ niệm đầy ắp và nỗi nhớ của nhà thơ về những ngày tháng gắn bó cùng binh đoàn:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
..Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Hai câu thơ mở đầu đã tạo ngay ấn tượng về nỗi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Thì ra đã có một khoảng lùi xa thời gian để thành ám ảnh, để thành nỗi nhớ và tiếc nuối nữa. Những tiếng “xa rồi Tây Tiến ơi!” thốt lên từ trong lòng nhà thơ như một niềm nuối tiếc. Tiếng lòng đó cất lên sao mà tha thiết đến thế, đồng thời như có tiếng vọng đáp lại vào vách núi, ngân nga không dứt trong không gian bởi “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!". Những hình ảnh thiên nhiên như đột ngột hiện lên trong không gian. Đó là con sông Mã kì vĩ và kiêu hãnh chảy từ thượng Lào về đất Việt, đó là rừng, là núi điệp trùng, những nơi đã in dấu chân của binh đoàn Tây Tiến một thời trận mạc, thế mà giờ đây đã xa rồi thì làm sao tránh khỏi nỗi nhớ dâng lên trong lòng người chiến sĩ Tây Tiến năm xưa. Nỗi nhớ ấy có địa chỉ, địa danh như đã bắt rễ trong lòng người, nỗi nhớ ấy lại trong một trạng thái thật diệu vợi, mơ hồ như một thoáng buồn xa xôi... Có lẽ nhà thơ đã đạt được cái tài và cái tình ấy trong cầu thơ "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi!".
Từ hai câu thơ khơi nguồn ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra lan toả như mỗi chuỗi kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao trong lòng. Và đây, hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa Sài Khao sương lấp đập mạnh gây ân tượng. Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình dung Thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ cực của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng sương lấp, hoa về, đêm hơi….. khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt nhoà đi, gây được ân tượng nhiều chiều trung, tâm trí người đọc. Bối cảnh thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh sóng đôi của sự trái ngược:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Bước hành quân gian lao của người lính vệ quốc mở ra trong không gia nhiều chiều. Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chiến gian lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phần tạo nên thành công cả về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
Nếu Quang Dũng nhắc đến rừng núi mơ mộng thì Chế Lan Viên định hình rõ ràng và sâu sắc nỗi nhớ của mình. Biện pháp điệp từ “nhớ” vừa làm nổi bật, vừa thể hiện nỗi nhớ tràn ngập, như 'bản sương giăng', 'đèo mây phủ', là những vẻ đẹp đặc trưng của núi rừng Tây Bắc. Từ những cảm xúc cá nhân, tác giả nâng lên thành quy luật tình cảm, “Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?. Tiếp theo, tác giả đưa ra một triết lý, “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”, tạo ra cặp đối lập 'khi ta ở-khi ta đi', làm cho đất trở thành một phần của tâm hồn khi rời đi.
Từ ký ức về nhân dân và cảnh vật Tây Bắc, tác giả chuyển sang suy ngẫm về tình yêu và sự kết nối đặc biệt với đất lạ.
“Anh đột nhiên hồi tưởng về em như dòng lạnh của mùa đông
Tình yêu ta giống như cánh kiến và hoa vàng
Như chim rừng lông đã trắng bạch trở lại khi xuân về
Tình yêu như làm cho đất lạ trở thành quê hương”
Anh và em nắm tay nhau cuối mùa chiến dịch
Xôi gói nuôi quân, giấu trong rừng mỗi ngày
Đất Tây Bắc không biết đến lịch trình
Mùi hương xôi đầu vẫn đọng mãi trong ký ức”.
Tiếp theo, theo dòng cảm xúc nhớ về nhân dân, tác giả chuyển hướng đột ngột sang nỗi nhớ đột ngột về người yêu. Hình ảnh đặc sắc như “như đông về nhớ rét” diễn đạt sự khắc sâu của tình cảm, giống như giá rét gắn bó với mùa đông, làm nổi bật giá trị quan trọng của mối quan hệ. Nỗi nhớ này dẫn tới suy ngẫm về tình yêu, so sánh với 'cánh kiến và hoa vàng', 'chim rừng lông đã trắng bạch trở lại khi xuân về'. Cánh kiến và hoa vàng, như tình yêu đôi lứa, gắn bó không thể tách rời; và chim rừng trắng bạch, giống như tình yêu, làm cho mùa xuân trở nên rực rỡ. Cuối cùng, từ nỗi nhớ và tình yêu, tác giả đưa ra triết lý: “Tình yêu làm cho đất lạ trở thành quê hương”. Tình yêu giúp đất lạ trở nên thân thuộc và quan trọng như quê hương.
Qua đó có thể thấy, với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng người lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta. Còn Tiếng hát của con tàu là bài thơ thể hiện niềm khao khát và hạnh phúc trong tâm hồn nhà thơ khi trở về với nhân dân, để tìm lại nguồn cảm hứng cho sự sáng tạo và cho hồn thơ của mình. Bài thơ tạo hình ảnh sáng tạo, đầy màu sắc và tinh tế, kết hợp trí tuệ và cảm xúc, mang lại cho độc giả những trải nghiệm thẩm mỹ đặc sắc của thơ Chế Lan Viên.
Bài tham khảo Mẫu 2
Nỗi nhớ – một trong những cảm xúc đẹp đẽ và sâu lắng nhất của con người – luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong thi ca. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nỗi nhớ không chỉ mang sắc thái riêng tư mà còn thấm đượm lý tưởng cách mạng và tình yêu đất nước. Hai bài thơ tiêu biểu thể hiện nỗi nhớ với hình thức nghệ thuật đặc sắc là “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên. Tuy cùng khai thác một mạch cảm xúc, nhưng hai thi phẩm đã thể hiện nỗi nhớ theo những cách khác nhau, phù hợp với phong cách nghệ thuật riêng biệt của mỗi nhà thơ, tạo nên hai bản sắc độc đáo và giàu tính thẩm mỹ.
Ngay từ những câu thơ mở đầu, Quang Dũng đã đưa người đọc bước vào không gian hồi ức đầy cảm xúc: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! / Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Nỗi nhớ trong “Tây Tiến” là nỗi nhớ của người lính về một thời hào hùng, gian khổ nhưng đầy vẻ đẹp lãng mạn. Đó là những kỷ niệm gắn với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm / Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, là nỗi nhớ đồng đội dũng cảm, hào hoa: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm”, và cả những kỷ niệm đời thường ấm áp: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói / Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Tất cả những điều ấy được kết tinh lại trong một nỗi nhớ da diết, chơi vơi, vừa thực vừa mơ.
Về mặt nghệ thuật, “Tây Tiến” mang đậm phong cách lãng mạn và bi tráng. Quang Dũng sử dụng hình ảnh giàu tính tượng trưng và gợi cảm, kết hợp với ngôn ngữ thơ táo bạo, sáng tạo (“súng ngửi trời”, “áo bào thay chiếu”). Nhà thơ còn khéo léo sử dụng thủ pháp đối lập, tương phản, như cái chết của người lính giữa núi rừng được nâng lên thành hình ảnh anh hùng, thiêng liêng. Đặc biệt, nhịp thơ biến hóa linh hoạt, khi dồn dập, khi lắng sâu, góp phần thể hiện trọn vẹn cảm xúc nhớ thương xen lẫn tự hào, xót xa.
Nếu như Quang Dũng nhớ về đồng đội và chiến trường Tây Bắc bằng tâm thế của một người lính – nghệ sĩ, thì Chế Lan Viên trong “Tiếng hát con tàu” lại thể hiện nỗi nhớ với hình hài của một người trí thức cách mạng, từng xa cách với nhân dân, nay khao khát trở về, hòa nhập, cống hiến. Mạch cảm xúc trong bài thơ là sự giằng xé nội tâm, là khát vọng được sống trọn vẹn giữa lòng đất nước và nhân dân, là nỗi nhớ lắng sâu từ một tấm lòng biết ơn sâu sắc: “Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc / Năm con đau, mế thức một mùa dài”. Nỗi nhớ của Chế Lan Viên bao trùm lên cả một không gian rộng lớn – Tây Bắc, cả một quãng thời gian lịch sử – mười năm kháng chiến, cả những con người bình dị mà cao cả – anh du kích, thằng em liên lạc, người mẹ dân tộc….
Điều đặc biệt trong nghệ thuật thơ Chế Lan Viên là chất chính luận trữ tình. “Tiếng hát con tàu” được viết bằng giọng điệu tâm tình mà sâu sắc, đan xen những câu hỏi tu từ, những lời đối thoại với chính bản thân (“Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?”, “Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”). Hình ảnh thơ mang nhiều tính biểu tượng và ẩn dụ, như “Tàu đói những vành trăng”, “Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống / Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân”, khiến nỗi nhớ trở nên đa chiều, vừa cụ thể vừa khái quát, vừa là cảm xúc cá nhân vừa là lý tưởng cộng đồng. Cấu trúc thơ mở rộng theo mạch cảm xúc tự do, đưa người đọc đi từ những băn khoăn nội tâm đến sự giác ngộ sâu sắc về lý tưởng sống.
So sánh hai bài thơ, có thể thấy nỗi nhớ trong “Tây Tiến” mang màu sắc lãng mạn, bi tráng, còn trong “Tiếng hát con tàu” lại mang tính triết lý, nhân văn. Nếu “Tây Tiến” là bản hùng ca của người lính trong chiến trận, thì “Tiếng hát con tàu” là lời tự sự của người trí thức đi tìm lại chính mình trong lòng nhân dân. Về nghệ thuật, cả hai nhà thơ đều thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhịp điệu linh hoạt và sáng tạo hình tượng. Tuy vậy, phong cách của Quang Dũng nghiêng về chất nhạc, chất họa, còn Chế Lan Viên thiên về chiêm nghiệm và lý tưởng.
Cả “Tây Tiến” và “Tiếng hát con tàu” đều để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bởi cách thể hiện nỗi nhớ rất riêng nhưng đều thống nhất ở tình yêu sâu nặng với Tổ quốc và nhân dân. Trong thơ họ, nỗi nhớ không chỉ là một trạng thái cảm xúc cá nhân mà còn là biểu hiện của tâm hồn người nghệ sĩ biết rung cảm trước vẻ đẹp của đời sống, của kháng chiến, của con người bình dị mà anh hùng.
“Tây Tiến” và “Tiếng hát con tàu” là hai minh chứng tiêu biểu cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc trữ tình và lý tưởng cách mạng trong thơ ca kháng chiến. Hai bài thơ không chỉ cho thấy nỗi nhớ có thể hóa thành thơ, mà còn cho thấy thơ có thể trở thành tiếng nói thiêng liêng của tâm hồn, của lòng yêu nước, yêu người – một giá trị vượt thời gian và đầy sức sống.


Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 12 - Kết nối tri thức - Xem ngay
Các bài khác cùng chuyên mục
- So sánh, đánh giá về hình thức nghệ thuật cách thể hiện nỗi nhớ trong Tây Tiến và Tiếng hát con tàu lớp 12
- Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến: người trẻ hiện nay nên sống với ước mơ của mình hay sống theo kỳ vọng của cha mẹ? lớp 12
- Viết bài văn nghị luận (600 chữ) bàn về vấn đề: Từ điểm nhìn của thế hệ thanh niên hôm nay, hãy phác hoạ chân dung một người thành đạt trẻ tuổi. lớp 12
- Anh (chị) hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về ý nghĩa của việc định hướng nghề nghiệp cho tương lai của thế hệ trẻ hiện nay. lớp 12
- Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ suy nghĩ về ý nghĩa của việc đứng dậy sau những sai lầm, vấp ngã trong cuộc sống lớp 12
- So sánh, đánh giá về hình thức nghệ thuật cách thể hiện nỗi nhớ trong Tây Tiến và Tiếng hát con tàu lớp 12
- Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến: người trẻ hiện nay nên sống với ước mơ của mình hay sống theo kỳ vọng của cha mẹ? lớp 12
- Viết bài văn nghị luận (600 chữ) bàn về vấn đề: Từ điểm nhìn của thế hệ thanh niên hôm nay, hãy phác hoạ chân dung một người thành đạt trẻ tuổi. lớp 12
- Anh (chị) hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về ý nghĩa của việc định hướng nghề nghiệp cho tương lai của thế hệ trẻ hiện nay. lớp 12
- Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ suy nghĩ về ý nghĩa của việc đứng dậy sau những sai lầm, vấp ngã trong cuộc sống lớp 12