Đề thi tiếng việt 4, đề kiểm tra tiếng việt 4 kết nối tri thức với cuộc sống có đáp án và lời giải chi tiết
Đề kiểm tra giữa học kì 1 Tiếng Việt 4 - Kết nối tri thức Đề thi giữa học kì 1 Tiếng Việt 4 - Đề số 5>
Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khoẻ và chắc mẩy.
Tổng hợp đề thi giữa kì 1 lớp 4 tất cả các môn - Kết nối tri thức
Toán - Tiếng Việt - Tiếng Anh
Đề bài
A. KIỂM TRA ĐỌC
I. Đọc thành tiếng
- Học sinh đọc đoạn văn bản "Nhà phát minh 6 tuổi" (SGK Tiếng Việt 4 tập 1 - Kết nối tri thức với cuộc sống, trang 51-52). Đảm bảo đọc đúng tốc độ, thời gian 3 - 5 phút.
- Dựa vào nội dung bài đọc, học sinh trả lời câu hỏi:
Câu nói của người cha: "Đây sẽ là giáo sư đời thứ bảy của gia tộc tôi!" thể hiện điều gì?
II. Đọc hiểu
CHUYỆN VỀ HAI HẠT LÚA
Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khoẻ và chắc mẩy.
Một hôm, người chủ định đem gieo chúng trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm: "Dại gì phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi lí tưởng để trú ngụ". Thế là nó chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó.
Còn hạt lúa thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới mẻ ở ngoài cánh đồng.
Thời gian trôi qua, hạt lúa thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà bởi vì nó chẳng nhận được nước và ánh sáng. Lúc này chất dinh dưỡng chẳng giúp ích được gì, nó chết dần chết mòn. Trong khi đó, dù hạt lúa thứ hai bi nát tan trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trĩu hạt. Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới.
(Hạt giống tâm hồn)
Khoanh vào chữ cái trước ý trả lời đúng nhất hoặc thực hiện theo yêu cầu:
Câu 1. Hai hạt lúa trong bài có đặc điểm như thế nào?
A. Tốt, xinh đẹp, vàng óng.
B. Tốt, to khoẻ và chắc mẩy.
C. Vàng óng, trĩu hạt, chắc mẩy.
D. Vàng óng, to khoẻ và trĩu hạt.
Câu 2. Hạt lúa thứ nhất có suy nghĩ và hành động như thế nào?
A. Muốn được cuộc sống mới của cây lúa.
B. Muốn mãi mãi là hạt lúa đầy chất dinh dưỡng và lăn vào góc khuất để yên thân.
C. Lăn vào góc khuất để được yên thân và mọc thành cây lúa.
D. Muốn bắt đầu cuộc đời mới ở ngoài cánh đồng.
Câu 3. Vì sao hạt lúa thứ nhất không muốn được đem gieo xuống đất mà lại "chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó"?
A. Vì hạt lúa nghĩ ở đó có đủ nước và chất dinh dưỡng nuôi sống nó.
B. Vì hạt lúa nghĩ rằng đó là nơi trú ngụ an toàn, điều kiện sống tốt, giúp nó phát triển.
C. Vì hạt lúa sợ gặp nguy hiểm, sợ thân mình bị tan nát trong đất.
D. Vì hạt lúa sợ sẽ bị mang đi bán cho người khác.
Câu 4. Tại sao hạt lúa thứ hai lại mong muốn được gieo xuống đất?
A. Vì hạt lúa thấy sung sướng khi bắt đầu một cuộc đời mới.
B. Vì hạt lúa thấy thích thú khi được thay đổi chỗ ở mới.
C. Vì hạt lúa nghĩ rằng ở trong lòng đất sẽ được an toàn.
D. Vì hạt lúa muốn được lăn mình xuống đồng ruộng có nước.
Câu 5. Câu chuyện trên muốn nói với em điều gì?
Câu 6. Xác định danh từ (DT), động từ (ĐT) trong câu sau:
Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới.
Câu 7. Tìm các danh từ chung và danh từ riêng trong đoạn văn dưới đây:
Chúng tôi đứng trên núi Chung. Nhìn sang trái là dòng sông Lam uốn khúc theo dãy núi Thiên Nhẫn. Mặt sông hắt ánh nắng chiếu thành một đường quanh co trắng xóa. Nhìn sang phải là dãy núi Trác nối liền với dãy núi Đại Huệ xa xa. Trước mặt chúng tôi, giữa hai dãy núi là nhà Bác Hồ.
- Danh từ chung:..............................................................................................................
- Danh từ riêng: ...............................................................................................................
Câu 8. Xác định từ loại của các từ gạch chân trong câu sau:
Khi đi từ đây, khung cửa sẽ mở ra những khung trời rực rỡ thiên nhiên lung linh mùa tiết, mở ra những ngưỡng vọng cao hơn, đẹp hơn.
Câu 9. Đặt câu hỏi cho bộ phận gạch chân trong câu dưới đây:
Theo những chặng đường đời, đôi mắt ấy ghi dấu bao kỷ niệm của tôi từ tấm bé cho đến lúc trưởng thành.
B. KIỂM TRA VIẾT
Đề bài: Em hãy kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích.
-------- Hết --------
Lời giải
THỰC HIỆN: BAN CHUYÊN MÔN LOIGIAHAY.COM
|
1. B |
2. B |
3. C |
4. A |
A. KIỂM TRA ĐỌC
I. Đọc thành tiếng
II. Đọc hiểu
Câu 1. Hai hạt lúa trong bài có đặc điểm như thế nào?
A. Tốt, xinh đẹp, vàng óng.
B. Tốt, to khoẻ và chắc mẩy.
C. Vàng óng, trĩu hạt, chắc mẩy.
D. Vàng óng, to khoẻ và trĩu hạt.
Phương pháp giải:
Em đọc đoạn thứ nhất để chọn đáp án đúng.
Lời giải chi tiết:
Hai hạt lúa đều là những hạt lúa tốt, đều to khoẻ và chắc mẩy.
Đáp án B.
Câu 2. Hạt lúa thứ nhất có suy nghĩ và hành động như thế nào?
A. Muốn được cuộc sống mới của cây lúa.
B. Muốn mãi mãi là hạt lúa đầy chất dinh dưỡng và lăn vào góc khuất để yên thân.
C. Lăn vào góc khuất để được yên thân và mọc thành cây lúa.
D. Muốn bắt đầu cuộc đời mới ở ngoài cánh đồng.
Phương pháp giải:
Em đọc đoạn thứ hai để chọn đáp án đúng.
Lời giải chi tiết:
Hạt lúa thứ nhất muốn mãi mãi là hạt lúa đầy chất dinh dưỡng và lăn vào góc khuất để yên thân.
Đáp án B.
Câu 3. Vì sao hạt lúa thứ nhất không muốn được đem gieo xuống đất mà lại "chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó"?
A. Vì hạt lúa nghĩ ở đó có đủ nước và chất dinh dưỡng nuôi sống nó.
B. Vì hạt lúa nghĩ rằng đó là nơi trú ngụ an toàn, điều kiện sống tốt, giúp nó phát triển.
C. Vì hạt lúa sợ gặp nguy hiểm, sợ thân mình bị tan nát trong đất.
D. Vì hạt lúa sợ sẽ bị mang đi bán cho người khác.
Phương pháp giải:
Em đọc đoạn thứ hai để chọn đáp án đúng.
Lời giải chi tiết:
Hạt lúa thứ nhất không muốn được đem gieo xuống đất mà lại "chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó" vì hạt lúa sợ gặp nguy hiểm, sợ thân mình bị tan nát trong đất.
Đáp án C.
Câu 4. Tại sao hạt lúa thứ hai lại mong muốn được gieo xuống đất?
A. Vì hạt lúa thấy sung sướng khi bắt đầu một cuộc đời mới.
B. Vì hạt lúa thấy thích thú khi được thay đổi chỗ ở mới.
C. Vì hạt lúa nghĩ rằng ở trong lòng đất sẽ được an toàn.
D. Vì hạt lúa muốn được lăn mình xuống đồng ruộng có nước.
Phương pháp giải:
Em đọc đoạn thứ ba để chọn đáp án đúng.
Lời giải chi tiết:
Hạt lúa thứ hai mong muốn được gieo xuống đất vì hạt lúa thấy sung sướng khi bắt đầu một cuộc đời mới.
Đáp án A.
Câu 5. Câu chuyện trên muốn nói với em điều gì?
Phương pháp giải:
Em dựa kết cục của hai hạt lúa để rút ra bài học.
Lời giải chi tiết:
Câu chuyện khuyên chúng ta phải dám hi sinh cái nhỏ bé của bản thân để tạo ra những giá trị lớn lao, tốt đẹp cho cuộc đời. Nếu chỉ sợ hãi, an phận thì sẽ không thể trưởng thành và cống hiến được.
Câu 6. Xác định danh từ (DT), động từ (ĐT) trong câu sau:
Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới.
Phương pháp giải:
Em nhớ lại khái niệm về danh từ và động từ.
Lời giải chi tiết:
Danh từ: nó, đời, hạt lúa.
Động từ: mang đến.
Câu 7. Tìm các danh từ chung và danh từ riêng trong đoạn văn dưới đây:
Chúng tôi đứng trên núi Chung. Nhìn sang trái là dòng sông Lam uốn khúc theo dãy núi Thiên Nhẫn. Mặt sông hắt ánh nắng chiếu thành một đường quanh co trắng xóa. Nhìn sang phải là dãy núi Trác nối liền với dãy núi Đại Huệ xa xa. Trước mặt chúng tôi, giữa hai dãy núi là nhà Bác Hồ.
- Danh từ chung:..............................................................................................................
- Danh từ riêng: ...............................................................................................................
Phương pháp giải:
Em nhớ lại đặc điểm của danh từ chung và danh từ riêng.
Lời giải chi tiết:
- Danh từ chung: núi, dòng sông, dãy núi, mặt sông, ánh nắng, đường, nhà.
- Danh từ riêng: Chung, Lam, Thiên Nhẫn, Trác, Đại Huệ, Bác Hồ.
Câu 8. Xác định từ loại của các từ gạch chân trong câu sau:
Khi đi từ đây, khung cửa sẽ mở ra những khung trời rực rỡ thiên nhiên lung linh mùa tiết, mở ra những ngưỡng vọng cao hơn, đẹp hơn.
Phương pháp giải:
Em dựa vào nghĩa của từ để xác định từ loại.
Lời giải chi tiết:
- Danh từ: khung cửa, khung trời, thiên nhiên, ngưỡng vọng.
- Động từ: đi, mở.
Câu 9. Đặt câu hỏi cho bộ phận gạch chân trong câu dưới đây:
Theo những chặng đường đời, đôi mắt ấy ghi dấu bao kỷ niệm của tôi từ tấm bé cho đến lúc trưởng thành.
Phương pháp giải:
Em xác định bộ phận gạch chân trả lời cho câu hỏi gì.
Lời giải chi tiết:
Theo chặng đường đời, cái gì ghi dấu bao kỷ niệm của tôi từ tấm bé cho đến lúc trưởng thành?
B. KIỂM TRA VIẾT
Đề bài: Em hãy kể lại một câu chuyện cổ tích mà em yêu thích.
Phương pháp giải:
Em lập dàn ý cho bài văn:
1. Mở bài: Giới thiệu câu chuyện theo cách mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Câu chuyện đó có tên là gì? Em đã đọc được (hoặc nghe kể) ở đâu?
- Câu chuyện đó có nội dung như thế nào?
2. Thân bài: Kể lại nội dung câu chuyện đó theo trình tự thời gian.
- Giới thiệu nhân vật và hoàn cảnh:
+ Nhân vật chính là ai?
+ Câu chuyện xảy ra trong hoàn cảnh nào?
- Kể lại các sự việc chính trong câu chuyện:
+ Sự việc diễn ra khi nào? Ở đâu?
+ Chuyện gì xảy ra với nhân vật?
+ Ngoại hình nhân vật ra sao? Nhân vật có cảm xúc gì?
+ Nhân vật có những hành động gì?
- Tình cảm, cảm xúc của em đối với sự việc được kể (bất ngờ, hồi hộp, thích thú, xúc động...)
- Ý nghĩa của câu chuyện
3. Kết bài: Nêu suy nghĩ, cảm xúc,…và những liên tưởng, suy luận của em về câu chuyện hoặc chỉ nêu suy nghĩ, cảm xúc của em về câu chuyện.
Lời giải chi tiết:
Bài tham khảo 1:
Mỗi buổi tối, trước khi đi ngủ, bà lại kể cho em nghe một câu chuyện cổ tích Việt Nam. Trong những câu chuyện bà kể, em thích nhất câu chuyện “Nàng tiên ốc”.
Bà lão là một người sống cô độc một mình trong một ngôi nhà nhỏ. Bà đã già yếu, không thể cấy cày lại chẳng có con cháu đỡ đần nên cuộc sống rất nghèo khó. Hàng ngày, bà phải ra đồng mò cua bắt ốc kiếm sống. Một hôm, bà tình cờ bắt được một con ốc rất xinh đẹp, vỏ của nó phủ một màu xanh biếc, lấp la lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Thấy ốc đẹp, không nỡ đem bán nên bà đã đem ốc về và thả vào cái chum nước ngoài sân.
Lạ thay, từ ngày đó trở đi, mỗi lần bà đi làm về đều thấy nhà cửa sạch sẽ, tươm tất, gọn gàng, vườn tược được vun xới, lợn gà được ăn no. Đặc biệt, có cả mâm cơm được sắp sẵn trên bàn. Ban đầu, bà tưởng hàng xóm thương mình già cả côi cút nên sang giúp. Nhưng không phải. Bà quyết định tìm ra cho bằng được người đã lén giúp mình.
Đúng theo kế hoạch. Một hôm, bà giả vờ đi làm như mọi khi. Nhưng thực ra, đi đến nửa đường bà bèn quay lại, tìm nơi kín đáo rình xem... Chờ mãi, cuối cùng bà cũng thấy một người con gái tuổi mới mười tám đôi mươi, đẹp như tiên sa giáng trần chui ra từ trong chum nước. Nàng tiên nhẹ nhàng đi vào nhà rồi cầm chổi quét dọn, lau chùi nhà cửa, sân vườn và cho lợn, gà ăn... Bà hết sức ngạc nhiên. Đoán chắc nàng tiên chui ra từ vỏ ốc, bà lặng lẽ lại gần chum nước, cầm vỏ ốc lên rồi đập vỡ ra thành từng mảnh. Bà không muốn cô gái biến mất vào trong vỏ ốc, bà muốn cô sống với mình nên đã làm vậy. Nghe tiếng động, cô gái vội chạy đến bên chum nước để ẩn mình trong vỏ ốc, nhưng đã quá muộn. Thấy cô gái ngạc nhiên, bà bèn lên tiếng: “Con gái ơi! Hãy ở lại đây với ta”.
Cô gái bằng lòng. Từ đó nàng tiên ốc trở thành người con gái yêu của bà và nhờ có nàng mà cuộc sống của bà rất hạnh phúc. Qua câu chuyện trên, em hiểu được rằng, khi mọi người đối xử với nhau bằng những tình cảm chân thành, tốt đẹp thì chúng ta sẽ thấy hạnh phúc và vui vẻ.
Bài tham khảo 2:
“Cây khế” là một trong những câu chuyện cổ tích Việt Nam mà em yêu thích nhất. Dù đọc bao nhiêu lần, thì câu chuyện này vẫn hấp dẫn và thu hút em như mới đọc lần đầu tiên.
Lúc sinh thời, bố mẹ họ có một gia sản tương đối lớn. Khi họ mất đi, người anh đã dành hết nhà cửa, ruộng vườn, đất đai,... Anh chỉ để lại cho em một túp lều nhỏ và một cây khế. Vốn là người hiếu thuận, người em nhất mực nghe theo, không dám đòi hỏi gì hơn. Hằng ngày, vợ chồng người em ra sức chăm bón nên cây khế mau đơm hoa, kết trái. Nhìn cây khế trĩu quả, vợ chồng người em vui mừng khôn xiết. Cây khế đã trở thành nguồn sống của gia đình họ.
Một ngày kia, bỗng có một con chim lạ từ đâu bay đến đậu trên cây khế. Chim thật đẹp. Bộ lông nó mịn màng như nhung, thân hình chim to lớn như đại bàng. Chim ăn khế nhà người em rất nhiều, nó mổ hết quả này đến quả khác. Người em thật xót lòng nhưng không nỡ xua đuổi chim đi. Người em chỉ đứng dưới gốc mà than thở với chim rằng: "Gia đình ta sống nhờ vào cây khế này thôi, nay chim ăn hết thì ta sống làm sao?". Người em vừa dứt lời thì chim kêu lên thành tiếng: "Ăn một quả khế/ Trả một cục vàng/ May túi ba gang/ Mang đi mà đựng". Thật ngạc nhiên! Người em không nghĩ rằng chim sẽ giúp mình giàu sang, nhưng vẫn bảo vợ may một cái túi vừa đúng ba gang.
Sáng hôm sau, chim đến chở người em đi lấy vàng. Người em vô cùng vui sướng vì thấy có quá nhiều vàng ở đó, nhưng anh chỉ lấy vừa đủ đựng vào túi rồi leo lên lưng chim để chim chở về nhà. Gia đình người em đã trở nên giàu có từ dạo ấy. Người em đã có cơ hội giúp đỡ người nghèo khó trong làng. Vợ chồng họ thầm cảm ơn chim thần tốt bụng đã giúp đỡ họ.
Chẳng bao lâu, người anh biết được sự việc trên nên sang nhà người em đòi đổi gia sản của mình để lấy lại cây khế. Vốn chiều lòng anh, người em chấp thuận. Người em chỉ mong anh em thuận hòa và gia đình êm ấm. Thế là hằng ngày người anh cứ đứng ở gốc cây khế mà trông chờ chim lạ. Sự chờ mong của người anh cũng đến. Chim lạ bay tới ăn khế, người anh than thở với chim. Chim lạ cũng kêu thành tiếng như lần trước. Người anh mừng quá, lòng tham của anh trỗi dậy. Anh bảo vợ may cái túi mười hai gang để chuẩn bị đi lấy vàng.
Sáng sớm hôm sau, chim bay đến chở người anh đi đến núi vàng. Đến nơi, chim đáp cánh xuống. Nhìn thấy vàng, người anh hoa cả mắt. Anh không cầm được lòng tham nên cố lấy cho thật nhiều vàng. Anh đựng đầy vào túi mười hai gang và còn lấy thêm giấu vào trong người. Lúc về, chim bay qua giữa biển thì gặp cơn gió mạnh. Chim mỏi cánh bảo người anh thả bớt vàng xuống nhưng anh không chịu nghe lời, cứ khư khư ôm lấy túi vàng. Bỗng cánh chim chao đảo. Chim không chịu đựng được nữa vì quá nặng nên đã trút người anh cùng cái túi vàng xuống biển.
Qua câu chuyện, em nhận được bài học ý nghĩa mà ông cha gửi gắm “ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão”.



