Sự tích chùa Trấn Quốc


0:00
/
4:46
Chọn giọng đọc
Download
Playback seep

Đọc truyện: SỰ TÍCH CHÙA TRẤN QUỐC

Tương truyền, chùa được xây dựng từ thời Lý Nam Đế (năm 541-547) tại thôn Yên Hoa, gần bờ sông Hồng với tên gọi “Khai Quốc” (nghĩa là mở nước). Dưới triều vua Lý Nhân Tông, Thái hậu Ỷ Lan đã nhiều lần đến chùa cùng các vị cao tăng đàm đạo. Đến đời vua Lê Thái Tông (năm 1434-1442), nhà vua đổi tên chùa là chùa An Quốc. Hàng năm, nước sông Hồng lên to xói mòn làm lở bãi sông. Cho nên, năm 1615 đời vua Lê Kính Tông, dân làng Yên Phụ dời chùa vào gò đất Kim Ngưu (Cá vàng), nơi vào đời Lý và đời Trần, nhiều cung điện đã được xây dựng tại đây như cung Thúy Hoa, điện Hàm Nguyên phục vụ cho việc nghỉ ngơi, thư giãn của nhà vua. Khoảng thế  kỷ thứ XVII, chúa Trịnh cho đắp đê Cố Ngự (sau gọi chệch ra thành Cổ Ngư, nay là đường Thanh Niên) nên mới có đường nối đê với đảo Cá vàng. Chùa có lối kiến trúc khác với nhiều chùa: phía trước là đại bái rồi đến hậu cung, sau cùng mới là gác chuông.

Đến đời vua Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa (1681-1705), chùa được đổi tên là Trấn Quốc. Bức hoành phi đề chữ “Trấn Quốc Tự” treo tại gian đại bái hiện nay được làm từ thời đó. Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được người dân quen gọi đến tận ngày nay.

Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu và mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Trong một chuyến vi hành đất Thăng Long vào năm 1821, vua Minh Mạng đến viếng chùa và ban 20 lạng bạc để tu sửa. Đến năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn, 200 quan tiền và cho đổi tên thành chùa Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời Vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam và là ngôi chùa cổ nhất của Thăng Long Hà Nội với hơn 1500 năm tuổi. Chùa Trấn Quốc nổi tiếng không chỉ bởi vẻ đẹp cổ kính mà còn bởi không gian thoáng mát tươi xanh đã tạo nên một tổng thể kiến trúc, lịch sử văn hóa và thiên nhiên hoàn hảo.

Nằm trên một hòn đảo phía Đông của Hồ Tây, chùa Trần Quốc luôn được xem như một trong những danh thắng bậc nhất ở kinh thành Thăng Long, nay thuộc quận Ba Đình (Hà Nội). Nổi tiếng linh thiêng lại là danh thắng bậc nhất, nên từ xưa chùa Trấn Quốc thường được các vua chúa ngự giá đến vãng cảnh và cúng lễ vào những ngày rằm, lễ Tết. Trải qua rất nhiều đợt trùng tu, diện mạo của chùa có nhiều thay đổi. Song quy mô và kiến trúc còn giữ được đến nay là kết quả của đợt trùng tu năm 1815 với một diện tích khá rộng khoảng hơn 3.000m2, gồm một vườn tháp phía mặt tiền, nhà tổ, nhà khách, hai dãy hành lang tả hữu và thượng điện.

Ngôi chùa cổ kính này hiện còn lưu giữ khá nhiều hiện vật có giá trị như bộ tượng thờ ở thượng điện. Đây là những pho tượng được tạo tác tỉ mỉ, trau chuốt và mang nét đẹp đặc trưng riêng. Đáng nói nhất là pho tượng Thích Ca nhập Niết bàn được đánh giá là bức tượng Niết bàn đẹp ở Việt Nam. Chùa cũng có nhiều bia, cổ nhất là tấm bia dựng năm 1639 do trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính soạn, nội dung ghi lại lịch sử đại tu chùa vào chính năm này. Trong khuôn viên của chùa có cây bồ đề gần 60 năm tuổi do Tổng thống Ấn Độ tặng năm 1959 nhân chuyến thăm chính thức của Tổng thống tại Việt Nam.

Bài học rút ra

Chùa Trấn Quốc, một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, có lịch sử gần 1500 năm. Ngôi chùa đã trải qua nhiều lần đổi tên và trùng tu, cuối cùng mang tên Trấn Quốc từ đời vua Lê Hy Tông.

  • Nguồn gốc: Được xây dựng từ thời Lý Nam Đế, ban đầu mang tên Khai Quốc, sau đó đổi thành An Quốc.

  • Vị trí: Nằm trên một hòn đảo nhỏ trên Hồ Tây, Hà Nội.

  • Kiến trúc: Có kiến trúc độc đáo, trải qua nhiều lần trùng tu, vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính.

  • Giá trị lịch sử và văn hóa: Lưu giữ nhiều hiện vật quý giá, là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng.

  • Ý nghĩa tâm linh: Là một trong những trung tâm Phật giáo lớn của Hà Nội, thu hút nhiều người đến tham quan và cầu nguyện.

Những điểm nổi bật:

  • Tuổi thọ: Gần 1500 năm, một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam.

  • Vị trí đắc địa: Nằm trên đảo, bên hồ Tây, tạo nên khung cảnh thanh bình.

  • Kiến trúc độc đáo: Kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ kính và hiện đại.

  • Hiện vật quý giá: Nhiều pho tượng, bia đá có giá trị lịch sử.

  • Ý nghĩa tâm linh: Là nơi linh thiêng, thu hút nhiều người đến tham quan.

Đố vui qua truyện Sự tích chùa Trấn Quốc


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu
  • Sự tích Ông Dài ông Cộc - Truyện cổ tích

    Ngày xưa, ở vùng sông Tranh thuộc về tỉnh Đông có hai vợ chồng một nhà nọ, gia tư cũng vào hạng khá, nhưng tuổi già mà chưa có con. Thường ngày họ cầu trời có một đứa con cho vui tuổi già.

  • Thánh Gióng - Truyện cổ tích

    Chuyện kể rằng: vào đời Hùng Vương thứ 6, ở một làng nọ có hai vợ chồng ông lão rất hiền lành, chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức hay giúp đỡ mọi người. Hai ông bà tuổi đã cao mà vẫn không có lấy một mụn con.

  • Sự tích bánh chưng bánh giầy - Truyện cổ tích

    Ngày xưa ở nước ta, trong số các con của vua Hùng Vương thứ 6, có người con trai thứ 18 tên là Tiết Liêu (còn gọi là Lang Liêu). Tiết Liêu có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ, chăm chỉ hiền lành, ưa nghề trồng trọt. Chàng đem vợ con về quê vỡ nương, cuốc bãi, cùng với bà con nông dân đổ mồ hôi làm ăn sinh sống.

  • Mị Châu - Trọng Thủy - Truyện cổ tích

    Vua Thục đánh chiếm Văn Lang, hợp nhất hai nước, đặt tên là Âu Lạc, lấy hiệu là An Dương Vương, đóng đô, xây thành ở Phong Khê. Nhưng thành ở Phong Khê vừa xây xong thì lại đổ xuống. Xây ba lần, đổ ba lần.

  • Con Rồng cháu Tiên - Truyện cổ tích

    Ngày xưa, ở miền đất Lạc Việt, cứ như bây giờ là Bắc Bộ nước ta, có một vị thần thuộc nòi rồng, con trai thần Long nữ, tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng, thường ở dưới nước, thỉnh thoảng lên sống trên cạn, sức khỏe vô địch, có nhiều phép lạ.

>> Xem thêm