Văn mẫu 10 Kết nối tri thức - Nghị luận xã hội, nghị luận văn học lớp 10 KNTT Bài 5: Tích trò sân khấu dân gian - Văn mẫu 10 Kết nối ..

Phân tích nhân vật tri huyện trong đoạn trích Huyện đường


Trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, "Nghêu, Sò, Ốc, Hến" là một trong những vở tuồng nổi bật, được mọi người vô cùng yêu thích. Thuộc cảnh I của hồi thứ II, đoạn trích "Huyện đường" đã phơi bày những mưu mô, toan tính của tri huyện và đề lại nhằm vơ vét của cải của những người thưa kiện.

Tổng hợp đề thi học kì 1 lớp 10 tất cả các môn - Kết nối tri thức

Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh - Sử - Địa...

Trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, "Nghêu, Sò, Ốc, Hến" là một trong những vở tuồng nổi bật, được mọi người vô cùng yêu thích. Thuộc cảnh I của hồi thứ II, đoạn trích "Huyện đường" đã phơi bày những mưu mô, toan tính của tri huyện và đề lại nhằm vơ vét của cải của những người thưa kiện. Thông qua nhân vật tri huyện, tác giả dân gian thể hiện thái độ châm biếm, phê phán những tên quan tham lam ở xã hội xưa.

Ngay phần đầu đoạn trích, người đọc đã có được những hình dung khá cụ thể về nhân vật qua lời tự giới thiệu:

"Quyền trọng trấn nha môn

Bản chức xưng tri huyện

Đỉnh chung đà đủ miếng

Hoa nguyệt cũng quen mùi

Lấy của cậy ngọn roi

Làm quan nhờ lỗ khẩu

Sự lí thường phân ẩu

Được thua tự đồng tiền

Dân xã nếu không kiêng

Bỏ xuống lao giam kĩ"

Nhân vật không xưng tên cụ thể mà chỉ xưng danh dựa trên địa vị xã hội. Có thể thấy, nhân vật giữ vị trí quan trọng, uy thế lớn ở chốn công đường. Vì làm quan nên tên tri huyện có hoàn cảnh sống đủ đầy hơn người thường "đỉnh chung đà đủ miếng". Mặc dù là quan "phụ mẫu" nhưng tính cách, phẩm chất lại không hề xứng đáng với chức vụ mà hắn đảm nhận. Nhân vật thường sa đà vào thói ăn chơi, hưởng lạc, quan hệ trai gái lăng nhăng, không đứng đắn "hoa nguyệt cũng quen mùi". Đã vậy, hắn còn là người tham lam, hống hách, cậy quyền lực để vơ vét của cải của nhân dân "Lấy của cậy ngọn roi", "Được thua tự đồng tiền". Người dân nếu không nể sợ sẽ bị đưa xuống nhà lao giam kĩ. Trong quá trình phân xử, hắn làm việc không trung thực, thiếu nghiêm túc, thường phân xử bừa bãi "Sự lí thường phân ẩu". Thế nhưng, hắn vẫn bảo toàn chức vụ của mình nhờ tài ăn nói, nịnh hót. Như vậy, thông qua lời giới thiệu, người đọc có được cái nhìn khái quát về tên tri huyện. Hắn quả là kẻ gian manh, xấu xa.

Tính cách, đặc điểm của tên tri huyện càng được khắc họa rõ nét thông qua cảnh xử án. Khi đề lại hỏi về vụ Thị Hến, Nguyễn Sò, thay vì trả lời dứt khoát, tên tri huyện ỡm ờ, không rõ: "Tôi thì tôi nghĩ cứ để đu đưa như vậy đã. Thằng Sò này giàu lắm, chúng mình có thể "ấy" được.". Câu nói của tên tri huyện mang ẩn ý về toan tính bòn rút tiền từ tên Trùm Sò. Biết được Trùm Sò là địa chủ giàu có trong làng nên hắn muốn gây khó dễ để vòi tiền. Tên tri huyện muốn nhân cơ hội này kiếm chác, làm giàu cho bản thân. Mục đích hắn không kết tội Thị Hến là để có thêm thời gian nhận hối lộ từ Trùm Sò "Thị Hến thì cũng có thể cho về nhưng chưa nên xử vội, vì xử Hến thì phải xử Sò, thầy hiểu chứ?". Hắn làm quan nhưng lại không công bằng, không giải quyết dứt khoát, cố tình trì hoãn nhằm nhũng nhiễu người kêu kiện.

Hành động cười khoái trá càng lột tả bản chất tham lam, xấu xa của tên tri huyện. Hắn bày ra kế hoạch rồi tự hả hê, sung sướng trước những mưu mô, thủ đoạn của mình: "Phải nắm đứa có tóc, ai nắm kẻ trọc đầu"; "Ăn thua là những chỗ khó đấy đấy, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, nói thế nào lại chả được.". Thành ngữ: "Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo/ Miệng không vành méo mó tứ tung" trong câu nói này càng làm nổi bật sự tráo trở, lật lọng ở hắn ta. Ngoài ra, câu thành ngữ còn ẩn dụ cho tài ứng biến nhanh lẹ, tùy vào hoàn cảnh, vấn đề mà có thể nói nhiều kiểu khác nhau. Quả đúng là tên tri huyện "làm quan nhờ lỗ khẩu".

Như vậy, tên tri huyện đã hiện lên một cách chân thực với vẻ xấu xa, xảo quyệt. Nhân vật tri huyện trong tác phẩm mang tính biểu tượng, đại diện cho giai cấp thống trị trong xã hội xưa. Bởi thế, tác giả dân gian không đặt cho nhân vật một cái tên cụ thể mà chỉ gọi chung là tri huyện nhằm phê phán, châm biếm những kẻ đứng đầu bộ máy cai trị tham lam, chuyên bày trò nhũng nhiễu nhân dân. Đồng thời, để khắc họa tính cách, phẩm chất, tác giả dân gian còn xây dựng nhân vật chủ yếu thông qua lời nói và hành động.

Có thể nói, nhân vật tri huyện là nhân vật trung tâm trong toàn bộ đoạn trích "Huyện đường". Hiểu về nhân vật, ta càng đồng cảm với nỗi niềm của nhân dân. Những chiêu trò, mánh khóe mà tên tri huyện đưa ra cũng là mưu mô, toan tính của một số quan lại chốn nha môn phong kiến.



Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu
  • Viết bài văn (khoảng 150 chữ) về chủ đề: Múa rối nước- món quà kì diệu từ đồng ruộng Việt Nam

    Tại Việt Nam, múa rối là một trong những loại hình nghệ thuật truyền thống lâu đời. Đến nay, nghệ thuật múa rối Việt Nam đã đạt đến trình độ nghệ thuật có giá trị cao về tinh thần, đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần người dân Việt.

  • Phân tích văn bản Huyện đường

    Văn hóa nghệ thuật của Việt Nam khá nổi tiếng với nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, mỗi loại hình nghệ thuật có một nét đặc sắc riêng. Trong đó có tuồng - một loại hình nghệ thuật đặc sắc nghiêng về kịch hát có nét truyền thống và âm hưởng cổ của dân tộc.

  • Cảm nhận của anh/chị về bi kịch tình yêu của Xúy Vân qua trích đoạn “Xúy Vân giả dại”

    Chèo là loại hình kịch hát dân gian có tính chất tổng hợp, phổ biến nhất ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trước đây. Chèo là sản phẩm của các tầng lớp trí thức bình dân nên dù vô thức hay hữu thức, nội dung của chèo thường đề cao mộng công danh, học hành đỗ đạt làm quan, điều mà các trí thức xưa thường theo đuổi.

  • Phân tích nhân vật Xúy Vân trong Xúy Vân giả dại

    Chèo là một loại hình sân khấu dân gian kết hợp nghệ thuật hát, múa, diễn rất hài hoà. Các làn điệu chèo rất phong phú, đa dạng; lời chèo thấm quyện ca dao, dân ca một cách tài tình. Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian lâu đời của dân tộc ta.

  • Phân tích văn bản Xúy Vân giả dại

    Thuộc loại hình sân khấu dân gian, chèo được hình thành và phát triển ở nước ta từ rất sớm. Những vở chèo nổi tiếng nhất có thể kể đến như: Quan âm Thị Kính, Kim Nhan…những vở chèo không chỉ nhằm mục đích giải trí mà thông qua vở chèo các tác giả dân gian đã gửi gắm biết bao quan niệm về nhân sinh.

>> Xem thêm

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 10 - Kết nối tri thức - Xem ngay

Tham Gia Group Dành Cho 2K9 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí