Đề thi giữa kì 1 Văn 6 Cánh diều - Đề số 6>
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Đề thi
I. ĐỌC HIỂU (4đ)
Học sinh đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi phía dưới
THẦY CHU VĂN AN VÀ HỌC TRÒ THỦY THẦN
Ngày ấy, vào đời nhà Trần có một cụ đồ nho ở xã Quang Liệt tên là Chu Văn An. Học vấn của cụ sâu và rộng. Cũng vì tiếng tăm của cụ truyền khắp mọi nơi nên học trò xa gần đến học rất đông.
Về sau nhà vua nghe tiếng, vời cụ về kinh giao cho trông nom trường Quốc Tử Giám và dạy Thái tử học. Cụ để nhà lại cho vợ con rồi đi nhậm chức. Nhưng được hơn một năm đã thấy cụ chống gậy trở về.
Cụ bảo mọi người rằng:
- Ta không thể chịu được bảy tên quyền thần dối vua hại nước!
Từ đó, người ta thấy cụ trở lại nghề dạy học. Lần này những người đến xin “nhập môn” đông vô kể. Cả một cái gò cao ở xóm Văn phải dựng thêm ba bốn mái nhà nữa mới đủ chỗ để chứa học trò. Nhà trong xóm chật ních những anh đồ nho, đủ mặt người Kinh, người trại. Đó là chưa kể những người ở quanh, hàng ngày cơm đùm cơm gói đi về học tập.
Trong số học trò của cụ có hai anh em con vua Thủy. Nghe tiếng cụ đồ, vua Thủy cũng cho con lên học. Ngày ngày hai anh em đến bờ sông trút lốt thuồng luống ở nước rồi lên đất, nói nắng, cử chỉ không khác gì người trần.
Một hôm cụ để dạng chấm bài thì anh trưởng tràng đến kể cho biết răng sáng hôm nay, khi chưa rõ mặt người, anh có việc di chợ huyện đến cầu Bưa tình cờ dưới sông có hai người đi trên mặt nước tiến vào bờ:
- Đúng là hai anh em nhà Gàn thấy ạ! Con đầu tiên sợ nhưng cũng cố đi theo. Quả nhiên họ vào dây. Thầy bảo bây giờ nên làm thế nào?
Cụ đồ gật gù đáp:
-Con cứ để yên mặc họ, con ạ! Nếu là quỷ thần mà họ chuộng đạo thánh hiền thì lại càng hay chứ sao!
Năm ấy, vùng Thanh Đàm trời làm đại hạn. Suốt từ cuối năm ngoái cho đến tháng Hai năm nay không có lấy một giọt mưa. Đồng ruộng nứt nẻ. Mấy đám lúa đám ngô cứ héo dần. Thấy mọi người nhao nhác, cụ đồ sốt ruột không kém.
Một chiều kia sau buổi học, cụ đồ lưu hai anh em chàng Gàn ở lại rồi bảo:
-Thầy muốn các con thương đến dân một chút.
Hai anh em là bộ ngơ ngác không nói gì. Thấy họ còn giấu mình, ông cụ nói:
-Các con bất tất phải giấu. Thầy đã biết cả. Bây giờ đây chỉ có các con là cứu được dân sự. Các con hãy làm mưa cho họ nhờ.
Hai anh em đưa mắt nhìn nhau, hồi lâu bảo cụ:
- Dạ, nhưng hiểm vì sông hồ đều có lệnh “phong bể” cả thì lấy đâu ra nước bây giờ.
Ông cụ khẩn khoản:
- Các con nghĩ thử xem có thể lấy nước ở đâu được không. Không cứu được nhiều thì ta hãng tạm cứu ít vậy!
Hai anh em ngần ngừ hồi lâu rồi chỉ vào nghiên mực đặt trên án thư, bảo cụ đồ:
- Dạ, oai trời thì rất nghiêm nhưng lời của thầy thì rất trọng. Chúng con xin vâng lời thầy. Chúng con sẽ dùng nước ở nghiên mực này tạm thấm nhuần trong một vùng vậy.
Cụ đồ mừng rỡ chạy lại án thư bê cái nghiên mực lớn còn đầy mực và cả quản bút lông của mình thường dùng, đưa cho họ. Hai anh em đỡ lấy rồi cả ba người cùng tiến ra bờ sông. Đến nơi họ xắn ống tay áo rồi sau đó em bưng nghiên mực, anh cầm quản bút nhúng mực vẩy lên trời nhiều lần. Đoạn họ vứt cả nghiên lẫn bút xuống nước, củi vái cụ đồ rồi biến mất.
Đêm hôm ấy quả nhiên mây mù tối tăm rồi mưa một trận như trút. Cụ đồ vừa mừng vừa sợ, suốt đêm chạy ra chạy vào không ngủ. Sáng dậy, điều mà ai nấy đều lấy làm lạ là nước chỉ lênh láng suốt mấy cánh đồng trong vùng Thanh Đàm mà thôi. Hơn nữa sắc nước chỗ nào chỗ nấy đều đen như mực. Trận mưa đêm hôm đó quả cứu vớt được biết bao nhiêu là ruộng lúa, ruộng ngô và các hoa màu khác. Dân trong vùng Thanh Đàm lại vui vẻ như xưa.
Nhưng trong lúc đó ở thiên đình, các thiên thần đều lấy làm lạ về một trận mưa bất ngờ. Ngọc Hoàng nổi giận sai một thiên thần đi bắt cho được thủ phạm trị tội. Và cả hai anh em đều không thoát được khỏi lưới trời nghiêm ngặt: cả hai đều rơi đầu dưới lưỡi búa của thần Sét.
Xác của họ hiện nguyên hình là hai con thuồng luồng song đầu một nơi mình một nẻo, dạt vào gậm cầu Bưu. Cụ đồ nghe tin rất thương xót. Cụ khóc và cụ bắt tất cả học trò đưa đám chôn hai con thuồng luồng. Khăn áo hôm ấy trắng phau cả một bờ sông. Xác hai con vật được chôn cất một cách tử tế ở bên trên cầu và cũng đắp thành nấm như mộ của người.
Cái nghiên mực của cụ đồ Chu Văn An sau đó trôi về làng Quỳnh Đô làm đen cả nước cái đầm ấy, ngày nay người ta vẫn quen gọi là Đầm Mực. Còn quản bút thì trôi về làng Tó cho nên cho nên các cụ thường truyền rằng nhờ thế làng Tó tức làng Tả Thanh Oai bây giờ mời có lắm người học hành đỗ đạt. Còn chỗ ngôi mộ hai anh em thuồng luồng sau đó người ta lập miếu thờ ngày nay còn có tên là miếu Gàn.
(Đổng Chi, Truyện cổ Việt Nam chọn lọc, Tập 1, NXB Khoa học Xã hội, tr.284-287).
Câu hỏi
Câu 1: Câu chuyện trên kể về?
A. Nhân vật người anh hùng lịch sử.
B. Biến cố lịch sử trọng đại của dân tộc.
C. Những nhân vật tôn giáo.
D. Danh nhân văn hóa của dân tộc.
Câu 2: Nhân vật chính trong truyện là:
A. Thầy Chu Văn An.
B. Hai anh em con vua Thủy.
C. Thầy Chu Văn An và hai anh em con vua Thủy.
D. Thầy Chu Văn An và học trò.
Câu 3: Sự việc nào dưới đây không thuộc văn bản Thầy Chu Văn An và học trò Thủy thần?
A. Nói với anh em chàng Gàn.
B. Dạy thái tử học.
C. Phạt trò rất nghiêm.
D. Chống gậy trở về.
Câu 4: Câu nói: Ta không thể chịu được bảy tên quyền thần dối vua hại nước chứng tỏ điều gì ở thầy Chu Văn An?
A. Là người thẳng thắn, không chấp nhận sự dối trá
B. Là người khẳng khái, luôn lo nghĩ cho dân, cho nước
C. Chỉ ưa những người thật thà
D. Là người dám phản đối nhà vua
Câu 5: Sự việc sau đây giúp em hiểu như thế nào về người thầy Chu Văn An và người dân xưa trong đạo học? (1đ)
Từ đó, người ta thấy cụ trở lại nghề dạy học. Lần này những người đến xin “nhập môn” đông vô kể. Cả một cái gò cao ở xóm Văn phải dựng thêm ba bốn mái nhà nữa mới đủ chỗ để chứa học trò
Câu 6: Câu chuyện về hai anh em nhà Gàn đã thể hiện mong muốn nào của thầy Chu Văn An về học trò nói chung (trả lời từ 6-8 dòng) (1 đ)
PHẦN II. TẠO LẬP VĂN BẢN (6đ)
Đọc văn bản và bức họa sau:
Xưa Công Minh đến học thầy Tăng Tử, ở nhà thầy ba năm mà không mấy đọc sách. Tăng Tử gặng hỏi, Minh Tuyên thưa rằng: “Thưa thầy, con vẫn học. Con thấy: thầy ở trong nhà, trước mặt thân, lúc nào cũng hiếu, hòa nhã, cho đến giống vật chó mèo thầy cũng không mắng bao giờ. Thầy ứng tiếp bạn bè cung kính ung dung, rất lễ độ, kẻ dở người hay, ai nấy đều thiếp phục. Thầy ở triều đình, đối với kẻ dưới, bề ngoài rất là nghiêm trọng, mà trong bụng rất là nhân từ, không có ý hại ai bao giờ. Ba điều ấy, con lấy làm vui lòng, học mãi mà chưa được. Con đâu dám không hoc mà cứ ở cửa nhà thầy”
(https://bom.so/zM2Kwy)
a. Xác định nội dung/ thông điệp của văn bản và bức họa trên, từ đó tìm điểm tương đồng với chủ đề văn bản, lý giải cụ thể (8- 10 dòng)
b. Từ câu chuyện xúc động về thầy Chu Văn An với học trò ở trên, em hãy kể về một kỉ niệm với thầy cô giáo khiến em xúc động và ấn tượng sâu sắc (viết 1- 1,5 trang)
-----Hết-----
- Học sinh không được sử dụng tài liệu.
- Giám thị không giải thích gì thêm.
Đáp án
Đáp án đề 6
Phần I. ĐỌC HIỂU
Câu 1 |
Câu 2 |
Câu 3 |
Câu 4 |
D |
C |
C |
B |
Câu 1: Câu chuyện trên kể về? A. Nhân vật người anh hùng lịch sử. B. Biến cố lịch sử trọng đại của dân tộc. C. Những nhân vật tôn giáo. D. Danh nhân văn hóa của dân tộc. |
Phương pháp giải:
Đọc kĩ văn bản
Lời giải chi tiết:
Câu chuyện trên kể về Danh nhân văn hóa của dân tộc - nhà giáo, thầy thuốc, quan viên Đại Việt cuối thời Trần, "danh nhân văn hóa thế giới"- Chu Văn An
→ Đáp án D
Câu 2: Nhân vật chính trong truyện là: A. Thầy Chu Văn An. B. Hai anh em con vua Thủy. C. Thầy Chu Văn An và hai anh em con vua Thủy. D. Thầy Chu Văn An và học trò. |
Phương pháp giải:
Đọc kĩ văn bản
Lời giải chi tiết:
Nhân vật chính trong truyện là Thầy Chu Văn An và hai anh em con vua Thủy tề
→ Đáp án C
Câu 3: Sự việc nào dưới đây không thuộc văn bản Thầy Chu Văn An và học trò Thủy thần? A. Nói với anh em chàng Gàn. B. Dạy thái tử học. C. Phạt trò rất nghiêm. D. Chống gậy trở về. |
Phương pháp giải:
Đọc kĩ văn bản
Phương pháp loại trừ
Lời giải chi tiết:
Sự việc không thuộc văn bản: Thầy Chu Văn An phạt trò rất nghiêm
→ Đáp án C
Câu 4: Câu nói: Ta không thể chịu được bảy tên quyền thần dối vua hại nước chứng tỏ điều gì ở thầy Chu Văn An? A. Là người thẳng thắn, không chấp nhận sự dối trá B. Là người khẳng khái, luôn lo nghĩ cho dân, cho nước C. Chỉ ưa những người thật thà D. Là người dám phản đối nhà vua |
Phương pháp giải
Đọc kĩ và phân tích câu nói
Lời giải chi tiết
Câu nói chứng tỏ thầy là người khẳng khái, luôn lo nghĩ cho dân, cho nước
→ Đáp án B
Câu 5: Sự việc sau đây giúp em hiểu như thế nào về người thầy Chu Văn An và người dân xưa trong đạo học? (1đ)
Từ đó, người ta thấy cụ trở lại nghề dạy học. Lần này những người đến xin “nhập môn” đông vô kể. Cả một cái gò cao ở xóm Văn phải dựng thêm ba bốn mái nhà nữa mới đủ chỗ để chứa học trò
Phương pháp giải:
Đọc kĩ sự việc
Nêu ý kiến bản thân
Lời giải chi tiết:
Thầy Chu Văn An là người thầy khẳng khái, sự ảnh hưởng của thầy ngày càng sâu rộng trong dân chúng
- Người dân xưa rất coi trọng đạo học, dân chúng vô cùng tin tưởng vào phẩm chất, tài năng của thầy Chu Văn An
Câu 6: Câu chuyện về hai anh em nhà Gàn đã thể hiện mong muốn nào của thầy Chu Văn An về học trò nói chung (trả lời từ 6-8 dòng) (1 đ)
Phương pháp giải:
Chú ý những chi tiết nói về cách dạy học trò của thầy
Lời giải chi tiết:
- Học trò tôn kính thầy, trọng đạo học, luôn ý thức tầm sư học đạo
- Học trò dùng tài học của mình để giúp đời, giúp dân, giúp nước
PHẦN II. TẠO LẬP VĂN BẢN (6đ)
a. Xác định nội dung/ thông điệp của văn bản và bức họa trên, từ đó tìm điểm tương đồng với chủ đề văn bản, lý giải cụ thể (8- 10 dòng)
Phương pháp giải:
Hs cần đối chiếu văn bản, bức họa với chủ đề chung của văn bản, xác định mối quan hệ tương đồng và khác biệt
Lời giải chi tiết:
- Tham khảo gợi ý:
+ Văn bản: Ca ngợi tài đức của thầy giáo
+ Bức họa: Cảnh thầy đồ dạy học trò xưa
Như vậy, văn bản 1 có nhiều tương đồng với chủ đề văn bản đọc. Hs tự tìm dẫn chứng trong văn bản, giải thích rõ
b. Từ câu chuyện xúc động về thầy Chu Văn An với học trò ở trên, em hãy kể về một kỉ niệm với thầy cô giáo khiến em xúc động và ấn tượng sâu sắc (viết 1- 1,5 trang)
Phương pháp giải:
Dựa vào kiến thức và kĩ năng đã học để thực hiện bài văn
Lời giải chi tiết:
Kể về một kỉ niệm sâu sắc với thầy cô giáo |
||
Phần chính |
Điểm |
Nội dung cụ thể |
Mở bài |
0,5 |
- Dẫn dắt và giới thiệu về kỉ niệm - Nêu ấn tượng chung về kỉ niệm với thầy cô |
Thân bài |
2,5 |
1. Trình bày hoàn cảnh sảy ra câu chuyện - Thời gian - Không gian 2. Kể lại diễn biến câu chuyện - Chuyện gì đã sảy ra? - Các sự việc nối tiếp nhau như thế nào? - Những ai tham gia vào câu chuyện? Thầy/ cô giáo đóng vai trò như thế nào trong câu chuyện 3. Kết quả câu chuyện 4. Suy nghĩ/ cảm xúc của em với hành động, sự việc liên quan đến thầy/ cô |
Kết bài |
0,5 |
- Ấn tượng sâu sắc của bản thân về kỉ niệm - Bài học từ câu chuyện liên quan đến thầy cô - Sự tác động của kỉ niệm với bản thân (nhận thức, hành động) |
Yêu cầu khác |
0,5 |
- Bài viết thể hiện rõ đặc trưng thể loại: kể chuyện - Sắp xếp các sự việc hợp lí - Diễn đạt rõ ràng, gãy gọn, có yếu tố miêu tả, biểu cảm - Sử dụng từ ngữ phong phú, câu văn có sự liên kết |
Loigiaihay.com
- Đề thi giữa kì 1 Văn 6 Cánh diều - Đề số 7
- Đề thi giữa kì 1 Văn 6 Cánh diều - Đề số 8
- Đề thi giữa kì 1 Văn 6 Cánh diều - Đề số 9
- Đề thi giữa kì 1 Văn 6 Cánh diều - Đề số 10
- Tổng hợp 10 đề kiểm tra giữa học kì 1 Văn 6 cánh diều có đáp án
>> Xem thêm