Tóm tắt, bố cục Văn 12 Kết nối tri thức hay nhất Bài 3. Lập luận trong văn bản nghị luận

Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Nhìn về vốn văn hóa dân tộc (Trần Đình Hượu)


“Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” tác giả Trần Đình Hựu-nhà khoa học chuyên nghiên cứu về vấn đề lịch sử tư tưởng và văn hóa Việt Nam trung cận đại.

Quảng cáo

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Tóm tắt

Tóm tắt 1

“Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” tác giả Trần Đình Hựu, nhà khoa học chuyên nghiên cứu về vấn đề lịch sử tư tưởng và văn hóa Việt Nam trung cận đại. Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc phần II của bài viết “Về vấn đề đặc sắc văn hóa dân tộc” với những nhận định mang tính bao quát, một cái nhìn khách quan trong việc phân tích, đánh giá khoa học về giá trị, bản sắc văn hóa của nước ta lúc bấy giờ. Trước hết để người đọc hiểu sâu sắc bài viết của mình tác giả đưa ra khái niệm văn hóa và chỉ ra các phương diện chủ yếu văn hóa được biểu hiện ra bên ngoài như: tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc,  hội họa, văn học, ứng xử, sinh hoạt. Ở mỗi một khía cạnh đó Trần Đình Hựu chỉ ra các điểm tích cực và hạn chế cùng với những nguyên nhân, yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa (nội lực, ngoại lực) để tìm cách khắc phục. Nhưng nhìn chung đặc điểm nổi bật của văn hóa Việt Nam là giàu tính nhân bản, tinh tế, hướng tới sự phát triển hài hòa trên tất cả các phương diện với tinh thần chung “thiết thực, linh hoạt và dung hòa”. Ta không thấy trong bài viết có sự khen hay chê hoàn toàn mà tất cả đều hướng tới một mục đích duy nhất là làm cho văn hóa Việt Nam ngày càng phát triển, hội nhập với sự tiến bộ của thế giới nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt.

Tóm tắt 2

Đoạn trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc trích từ phần II, bài “Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc”, in trong cuốn “Đến hiện đại từ truyền thống”. Từ những hiểu biết sâu sắc về vốn văn hóa dân tộc, tác giả đã phân tích rõ những mặt tích cực và một số hạn chế của văn hóa truyền thống.

Trước hết, tác giả nêu ra những hạn chế của văn hóa truyền thống dân tộc. Văn học Việt chưa có tầm vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có khả năng ảnh hưởng đến các nền văn học khác. Điều đó được thể hiện qua các phương diện sau: Thần thoại không phong phú; tôn giáo, triết học, khoa học kĩ thuật, âm nhạc,  hội họa, không phát triển; thơ ca thì chưa có tác giả nào có tầm vóc lớn lao...

Bên cạnh mặt hạn chế, văn hóa Việt Nam cũng có thế mạnh: thiết thực, linh hoạt, dung hòa, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch; con người hiền lành, tình nghĩa. Việt Nam có nhiều tôn giáo nhưng không xảy ra xung đột. Người Việt Nam sống tình nghĩa, khôn khéo và hài hòa với thiên nhiên. Về nghệ thuật, người Việt sáng tạo tác phẩm tinh tế, không mang vẻ vĩ mô, tráng lệ, phi thường. Về quan niệm sống, người Việt luôn mong ước thái bình, sống thanh nhàn, thong thả.

Văn hóa Việt ảnh hưởng sâu sắc bởi học thuyết Phật giáo, Nho giáo và tư tưởng Lão – Trang nhưng cái gốc của văn hóa Việt Nam là tính nhân bản và tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa.

Tóm tắt 3

Đoạn trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc trích từ phần II, bài “Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc”, in trong cuốn “Đến hiện đại từ truyền thống”. Từ những hiểu biết sâu sắc về vốn văn hóa dân tộc, tác giả đã phân tích rõ những mặt tích cực và một số hạn chế của văn hóa truyền thống.

Trước hết, tác giả nêu ra những hạn chế của văn hóa truyền thống dân tộc. Văn học Việt chưa có tầm vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có khả năng ảnh hưởng đến các nền văn học khác. Điều đó được thể hiện qua các phương diện sau: Thần thoại không phong phú; tôn giáo, triết học, khoa học kĩ thuật, âm nhạc,  hội họa, không phát triển; thơ ca thì chưa có tác giả nào có tầm vóc lớn lao... Bên cạnh mặt hạn chế, văn hóa Việt Nam cũng có thế mạnh: thiết thực, linh hoạt, dung hòa, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch; con người hiền lành, tình nghĩa. Việt Nam có nhiều tôn giáo nhưng không xảy ra xung đột. Người Việt Nam sống tình nghĩa, khôn khéo và hài hòa với thiên nhiên. Về nghệ thuật, người Việt sáng tạo tác phẩm tinh tế, không mang vẻ vĩ mô, tráng lệ, phi thường. Về quan niệm sống, người Việt luôn mong ước thái bình, sống thanh nhàn, thong thả. Văn hóa Việt ảnh hưởng sâu sắc bởi học thuyết Phật giáo, Nho giáo và tư tưởng Lão – Trang nhưng cái gốc của văn hóa Việt Nam là tính nhân bản và tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa.


Xem thêm

Tóm tắt 4

Trần Đình Hựu bàn luận sâu sắc về những giá trị của văn hoá Việt Nam. Ông chỉ ra rằng văn hoá dân tộc vừa có những mặt hạn chế, vừa có những thế mạnh riêng. Hạn chế thể hiện ở chỗ văn học, nghệ thuật, triết học và khoa học của nước ta chưa đạt đến tầm vóc lớn. Tuy nhiên, người Việt lại có lối sống nhân hậu, linh hoạt, dung hoà và trọng nghĩa tình. Văn hoá Việt thể hiện sự khéo léo, tế nhị, hài hoà với thiên nhiên và con người. Nghệ thuật Việt Nam ưa tinh tế, giản dị, không phô trương. Tư tưởng Phật – Nho – Lão ảnh hưởng mạnh, nhưng cái gốc vẫn là nhân bản. Trần Đình Hựu khẳng định: chính tinh thần thiết thực, linh hoạt và nhân hậu làm nên bản sắc văn hoá Việt.

Tóm tắt 5

Bài “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” giúp người đọc hiểu rõ giá trị và giới hạn của truyền thống văn hoá Việt. Tác giả cho rằng nền văn hoá nước ta không phát triển rực rỡ ở các lĩnh vực triết học, khoa học, nghệ thuật, nhưng lại bền vững ở chiều sâu nhân bản. Người Việt sống tình nghĩa, hiền lành, luôn hướng tới sự dung hoà và ổn định. Nét văn hoá ấy thể hiện trong cách ứng xử, trong lối sống trọng tình hơn lý. Các tôn giáo ở Việt Nam tồn tại hài hoà, không gây mâu thuẫn. Nghệ thuật Việt Nam thiên về sự giản dị, tinh tế, nhẹ nhàng. Dù chịu ảnh hưởng Nho, Phật, Lão, nhưng nền tảng vẫn là tinh thần nhân văn.

Tóm tắt 6

Trần Đình Hựu nhận định văn hoá Việt Nam là sự kết tinh của tinh thần thiết thực và linh hoạt. Ông nêu ra những yếu điểm như khoa học, tôn giáo, nghệ thuật chưa phát triển mạnh, thiếu tầm vóc lớn. Tuy nhiên, trong đời sống tinh thần, người Việt lại giàu tình cảm, chuộng hài hoà và sống nhân hậu. Xã hội Việt Nam dung nạp nhiều tôn giáo mà vẫn không xảy ra xung đột. Nghệ thuật Việt Nam không hướng đến sự vĩ mô mà đề cao cái đẹp tinh tế, nhã nhặn. Con người Việt luôn hướng tới sự an nhiên, thanh bình. Từ đó, tác giả khẳng định cốt lõi của văn hoá dân tộc là tinh thần nhân bản, thiết thực và dung hoà.

Tóm tắt 7

Trần Đình Hựu khi viết “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” đã đưa ra một cái nhìn toàn diện và khách quan. Ông không chỉ ca ngợi mà còn chỉ rõ những điểm còn hạn chế của văn hoá Việt. Theo ông, nước ta chưa có những thành tựu vĩ đại về văn học, nghệ thuật hay triết học. Nhưng bù lại, người Việt có đời sống tinh thần phong phú, giàu tình nghĩa và lòng nhân hậu. Lối sống thiết thực, linh hoạt giúp dân tộc thích nghi qua nhiều biến động lịch sử. Văn hoá Việt đề cao sự hài hoà, tránh cực đoan, ưa ổn định. Ảnh hưởng của Nho, Phật, Lão hoà quyện thành nét riêng. Chính sự dung hoà ấy tạo nên bản sắc độc đáo và sức sống bền bỉ của dân tộc.

Tóm tắt 8

Nhìn về vốn văn hoá dân tộc là bài viết thể hiện tầm nhìn uyên thâm của Trần Đình Hựu. Ông cho rằng tuy văn hoá Việt không đạt đỉnh cao về học thuật, triết học hay nghệ thuật, nhưng lại rất sâu ở chiều nhân bản. Người Việt sống trọng tình, biết yêu thương và chia sẻ. Văn hoá dân tộc thiên về sự linh hoạt, nhẹ nhàng, dung hoà giữa các giá trị đối lập. Các tôn giáo đồng tồn tại mà không gây mâu thuẫn. Nghệ thuật Việt Nam giản dị, mang vẻ đẹp tinh tế, hướng tới cái thanh và cái thiện. Tác giả khẳng định: nền văn hoá Việt chính là biểu tượng của lòng nhân nghĩa và sự thích nghi mềm dẻo.

Tóm tắt 9

Trong văn bản này, Trần Đình Hựu đã soi chiếu nền văn hoá Việt từ góc độ truyền thống và hiện đại. Ông chỉ ra rằng tuy văn học, nghệ thuật, khoa học chưa đạt đến độ rực rỡ, nhưng văn hoá dân tộc vẫn có giá trị riêng. Tính thiết thực, linh hoạt và dung hoà là ba đặc điểm nổi bật. Người Việt yêu chuộng cuộc sống thanh bình, đề cao tình nghĩa và sự nhân hậu. Sự ảnh hưởng của Nho – Phật – Lão tạo nên nét đa dạng mà vẫn thống nhất. Nghệ thuật Việt Nam hướng đến cái đẹp giản dị, tinh tế chứ không phô trương. Bài viết thể hiện lòng tự hào và cái nhìn tỉnh táo về bản sắc văn hoá dân tộc.

Tóm tắt 10

Trần Đình Hựu trong bài “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” giúp ta hiểu sâu sắc hơn về hồn cốt của người Việt. Ông nhìn nhận văn hoá truyền thống có hạn chế về tri thức khoa học và nghệ thuật tầm cao. Song ở phương diện đạo đức và lối sống, văn hoá Việt Nam lại tỏa sáng nhân văn. Con người Việt ưa chuộng sự hài hoà, sống trọng nghĩa và tránh cực đoan. Tôn giáo và triết học phương Đông hòa nhập êm đềm vào đời sống dân gian. Nghệ thuật Việt Nam gắn với vẻ đẹp thanh nhã, tinh tế và nhân hậu. Tác giả khẳng định, linh hồn của văn hoá dân tộc là lòng nhân ái và sự dung hoà.

Tóm tắt 11

Bài viết “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” trích từ phần II, bài “Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc”, in trong cuốn “Đến hiện đại từ truyền thống” là kết tinh tư tưởng của Trần Đình Hựu về bản sắc Việt. Ông cho rằng văn hoá dân tộc tuy chưa đạt tầm vĩ đại nhưng lại bền vững và nhân hậu. Con người Việt yêu chuộng cuộc sống bình dị, linh hoạt trong ứng xử và trọng tình nghĩa. Tôn giáo, triết học và nghệ thuật đều hướng tới sự hài hoà. Việt Nam là đất nước hiếm hoi có nhiều tôn giáo mà không xảy ra xung đột. Văn hoá Việt chịu ảnh hưởng Phật – Nho – Lão nhưng vẫn giữ tinh thần riêng: nhân bản và thực tế. Trần Đình Hựu khẳng định: chính nét dung hoà và hiền hậu ấy làm nên sức sống của dân tộc.

Tóm tắt 12

Qua văn bản, Trần Đình Hựu nhìn nhận văn hoá Việt Nam với thái độ khách quan. Ông nêu rõ rằng nước ta chưa có nền văn học, nghệ thuật tầm thế giới. Dù vậy, văn hoá Việt lại đặc biệt ở tính thiết thực, linh hoạt và đạo lí nhân nghĩa. Con người Việt yêu hoà bình, sống hiền lành và trọng nghĩa tình. Nghệ thuật đề cao vẻ đẹp tinh tế, dung dị, gần gũi với cuộc sống. Tư tưởng tôn giáo được tiếp nhận một cách ôn hoà, không cực đoan. Cái gốc của văn hoá Việt là nhân bản, thể hiện trong lối sống hài hoà và khoan dung. Tác phẩm thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh tinh thần dân tộc.

Tóm tắt 13

Trần Đình Hựu trong bài viết của mình đã chỉ ra rằng văn hoá Việt có hạn chế về tầm vóc học thuật nhưng lại phong phú về tình cảm. Nền văn hoá ấy không thiên về triết học hay khoa học mà hướng vào đời sống con người. Người Việt coi trọng sự ổn định, yêu chuộng thanh bình và hoà hợp. Nhiều tôn giáo cùng tồn tại mà không mâu thuẫn. Nghệ thuật Việt Nam nhẹ nhàng, tinh tế, gần gũi, tránh phô trương. Ảnh hưởng của Phật – Nho – Lão hoà quyện trong đời sống thường nhật. Văn hoá Việt Nam vì thế mang bản sắc riêng: nhân hậu, dung hoà và thiết thực.

Tóm tắt 14

Trần Đình Hựu trong “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” thể hiện tầm nhìn triết luận sắc sảo khi tiếp cận bản sắc Việt từ chiều sâu nhân văn. Ông nhìn thấy trong lịch sử văn hoá nước ta sự kết hợp giữa nhiều yếu tố tưởng chừng đối lập: vừa trọng nghĩa tình mà vẫn thiết thực, vừa chịu ảnh hưởng Nho – Phật – Lão mà vẫn mang hồn dân gian riêng biệt. Văn hoá Việt không đạt đỉnh cao về tư tưởng hay nghệ thuật, nhưng lại bền vững ở khả năng thích ứng và dung hoà. Từ lối sống, tín ngưỡng đến thẩm mĩ, người Việt đều hướng tới sự ổn định, tinh tế và nhân hậu. Nét đặc trưng ấy đã giúp dân tộc vượt qua bao biến thiên lịch sử mà không đánh mất bản thể. Trần Đình Hựu cho rằng chính tinh thần “thiết thực, linh hoạt, nhân nghĩa” làm nên sức sống trường tồn của văn hoá Việt Nam.

Tóm tắt 15

Với cái nhìn khoa học và nhân bản, Trần Đình Hựu trong bài “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” đã phác hoạ một chân dung tinh thần của dân tộc Việt. Ông không ngần ngại chỉ ra rằng nước ta chưa có triết học lớn, khoa học phát triển hay nghệ thuật tầm cỡ thế giới. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra chiều sâu đáng quý: tinh thần nhân ái, dung hoà và thiết thực đã trở thành trụ cột của văn hoá dân tộc. Người Việt sống trọng tình, coi trọng sự ổn định hơn mạo hiểm, đề cao hài hoà hơn cực đoan. Nghệ thuật ưa giản dị, kín đáo nhưng tinh tế, phản chiếu tâm hồn mềm mại và tế nhị. Nho – Phật – Lão ảnh hưởng sâu rộng nhưng được người Việt tiếp nhận một cách chọn lọc. Tư tưởng nhân bản, khoan dung ấy là linh hồn của nền văn hoá Việt Nam.

Tóm tắt 16

“Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” của Trần Đình Hựu là một khảo luận giàu giá trị tư tưởng, khơi dậy ý thức tự nhận thức về bản sắc Việt. Ông nhìn nhận văn hoá không phải là hệ thống thành tựu vật chất, mà là lối sống, là tinh thần ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên. Trong đó, người Việt hiện lên với tâm thế hoà hiếu, linh hoạt, trọng tình và thiết thực. Sự dung hợp Nho – Phật – Lão không làm mất bản sắc, trái lại còn tạo nên tính mềm mại, sâu lắng. Nghệ thuật Việt không phô trương mà ưa hàm ẩn, tinh vi. Dưới ngòi bút Trần Đình Hựu, văn hoá Việt được khẳng định như một “nguồn mạch ngầm” duy trì sức sống dân tộc. Đó là tinh thần nhân hậu và trí tuệ dung hoà – hai phẩm chất đã nuôi dưỡng bản lĩnh Việt qua muôn đời.

Tóm tắt 17

Trong bài viết của mình, Trần Đình Hựu không chỉ nhìn văn hoá Việt bằng con mắt tự hào mà còn bằng tinh thần phản tỉnh. Ông thấy rõ những giới hạn của văn hoá Việt: chưa có tư tưởng triết học hệ thống, khoa học chậm phát triển, nghệ thuật chưa đạt độ rực rỡ. Tuy vậy, từ những điều tưởng như yếu kém ấy lại toát lên một giá trị nhân bản đặc biệt. Người Việt biết dung hoà, không cực đoan, yêu sự ổn định và bình an. Nét đẹp ấy thể hiện trong tín ngưỡng, trong giao tiếp, trong cả cách ứng xử với thiên nhiên. Nho – Phật – Lão không phải là gông cùm mà là chất men dung dưỡng bản sắc Việt. Nhờ thế, văn hoá Việt trở thành nền tảng tinh thần bền vững của dân tộc qua mọi thời đại.

Tóm tắt 18

Văn bản “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” đặt ra vấn đề cốt lõi: nhận diện đúng “hồn” của văn hoá Việt. Trần Đình Hựu cho rằng bản sắc dân tộc nằm ở khả năng dung nạp và hoà giải, chứ không ở sự đối kháng hay phô trương. Người Việt coi trọng tình cảm hơn lí trí, lấy nhân nghĩa làm chuẩn mực sống. Văn hoá Việt không phải của những triết gia, mà của người dân biết yêu thương, biết sống thuận lẽ tự nhiên. Dưới ánh sáng tư tưởng ấy, nghệ thuật Việt trở thành tiếng nói của sự tinh tế và lòng nhân ái. Những ảnh hưởng ngoại lai đều được tiếp nhận trong tinh thần chọn lọc. Qua cái nhìn của Trần Đình Hựu, văn hoá Việt là bản hoà ca của sự khoan dung và linh hoạt, là một nền văn hoá sống vì con người.

Tóm tắt 19

Trần Đình Hựu trong “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” không chỉ phân tích mà còn đối thoại với truyền thống. Ông soi rọi lịch sử văn hoá để thấy sự thống nhất giữa cái dân gian và cái bác học, giữa tính thực tiễn và tính nhân văn. Ông khẳng định: trong khi nhiều dân tộc lấy sức mạnh lý trí làm cốt lõi, thì người Việt lại đặt tình nghĩa và lòng nhân làm gốc. Vì thế, dù không phát triển rực rỡ về học thuật, văn hoá Việt vẫn giữ được sức sống bền bỉ. Con người Việt Nam biết dung hoà giữa tôn giáo và đời sống, giữa đạo lí và thực tế. Nghệ thuật và tư tưởng đều thấm đẫm tinh thần thanh nhã, kín đáo. Tác giả cho rằng chính sự mềm mại ấy là nền tảng sâu xa của bản lĩnh dân tộc.

Tóm tắt 20

Bằng tư duy nhân văn, Trần Đình Hựu đã nhìn nhận văn hoá Việt Nam như một hệ thống hài hoà và bền bỉ. Ông không tìm cái cao xa, mà tìm cái nhân bản trong đời sống thường ngày của dân tộc. Người Việt yêu chuộng sự an ổn, trọng nghĩa hơn tài, chuộng cái đẹp tinh tế hơn phô trương. Nho – Phật – Lão là ba nguồn tư tưởng được tiếp nhận dung hoà, không cực đoan. Văn hoá Việt tuy giản dị nhưng thấm đượm tinh thần nhân hậu, bao dung. Dưới ngòi bút của Trần Đình Hựu, văn hoá không chỉ là di sản, mà là cách con người sống, nghĩ và yêu thương. Bản sắc ấy giúp dân tộc đứng vững qua nghìn năm biến động.

Tóm tắt 21

“Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” thể hiện cách tư duy biện chứng của Trần Đình Hựu khi ông không tách rời ưu và khuyết của văn hoá Việt. Theo ông, tuy văn hoá Việt thiếu chiều sâu triết học, nhưng lại giàu tình cảm nhân bản và tính thích nghi. Người Việt biết sống hoà mình với thiên nhiên, coi trọng cộng đồng, trọng nghĩa tình. Tư tưởng tôn giáo phương Đông được hấp thụ nhẹ nhàng, không xung đột. Nghệ thuật Việt giản dị mà duyên dáng, toát lên cái đẹp của tâm hồn. Nền văn hoá ấy giúp con người vượt qua gian khó bằng sự linh hoạt và lòng nhân. Bài viết khơi dậy niềm tin rằng sức mạnh dân tộc nằm ở chiều sâu văn hoá chứ không chỉ ở vật chất.

Tóm tắt 22

Từ góc nhìn văn hoá học, Trần Đình Hựu khẳng định: văn hoá Việt là một hệ giá trị lấy con người làm trung tâm. Ông chỉ ra rằng dù thiếu những công trình triết học hay khoa học lớn, dân tộc ta vẫn có nền văn hoá sâu đậm trong tình người. Người Việt coi trọng chữ “nhân”, sống ôn hoà và luôn dung hoà các mối quan hệ. Văn hoá Việt biết tiếp nhận Nho – Phật – Lão mà không bị đồng hoá. Nghệ thuật Việt Nam không rực rỡ nhưng bền bỉ, thanh nhã và gần gũi. Bản sắc ấy giúp dân tộc tồn tại qua nghìn năm Bắc thuộc và bao biến cố lịch sử. Tư tưởng của Trần Đình Hựu vì thế là lời nhắc nhở: giữ lấy hồn cốt văn hoá là giữ lấy chính sự sống của dân tộc.

Tóm tắt 23

Trần Đình Hựu khi “nhìn về vốn văn hoá dân tộc” không chỉ tổng kết di sản tinh thần của cha ông, mà còn gợi mở hướng phát triển cho hiện tại. Ông thấy rõ những yếu điểm của văn hoá truyền thống, song quan trọng hơn, ông phát hiện giá trị bền vững nằm ở tinh thần nhân nghĩa và khả năng thích nghi. Người Việt từ lâu đã học cách sống dung hoà: giữa đạo và đời, giữa con người và thiên nhiên. Nghệ thuật và tín ngưỡng đều thấm đượm vẻ đẹp giản dị, tinh tế, sâu lắng. Ảnh hưởng Nho – Phật – Lão được dung nạp để tạo nên tâm hồn hiền hoà, nhân hậu. Qua cách nhìn ấy, Trần Đình Hựu không chỉ miêu tả văn hoá Việt, mà còn khẳng định triết lí: “hiểu mình để tồn tại”, “giữ hồn để phát triển”.

Tóm tắt 24

Trong “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc”, Trần Đình Hựu tiếp cận vấn đề văn hoá bằng cái nhìn vừa lịch sử vừa nhân học. Ông không chỉ miêu tả những biểu hiện bề mặt, mà còn lý giải mạch nguồn tư tưởng hình thành nên tính cách văn hoá Việt. Qua hàng nghìn năm giao thoa và thử thách, văn hoá Việt hiện lên như một hệ giá trị mở, luôn biết dung hợp nhưng không tan biến. Dù thiếu những thành tựu triết học vĩ đại, dân tộc Việt vẫn giữ được nền văn hoá nhân bản, thiết thực và khoan dung. Chính năng lực thích nghi và hài hoà ấy làm nên bản lĩnh sinh tồn của con người Việt. Trần Đình Hựu không tìm kiếm sự huy hoàng, mà khẳng định vẻ đẹp của “cái vừa phải”, một giá trị triết học ngấm sâu trong lối sống Việt Nam.

Tóm tắt 25

Văn bản của Trần Đình Hựu là một minh chứng cho tư duy biện chứng trong nghiên cứu văn hoá. Ông không tách truyền thống ra khỏi hiện đại, mà xem truyền thống như một dòng chảy nối tiếp, là nền tảng để đi đến hiện đại. Khi chỉ ra những hạn chế của văn hoá Việt, tác giả không phủ nhận, mà đặt chúng trong logic của lịch sử và điều kiện phát triển dân tộc. Từ đó, ông làm nổi bật sức mạnh nội sinh của văn hoá Việt, đó là tinh thần nhân nghĩa, trọng tình, sống dung hoà và hướng thiện. Văn hoá Việt, trong cách nhìn ấy, không chỉ là ký ức mà là năng lượng nuôi dưỡng căn tính dân tộc trong toàn cầu hoá. Bằng giọng văn tri thức nhưng gần gũi, Trần Đình Hựu khẳng định giá trị trường tồn của cái “đẹp bình dị”, một biểu hiện sâu sắc của trí tuệ phương Đông.

Tóm tắt 26

“Nhìn về vốn văn hoá dân tộc”, Trần Đình Hựu cho rằng muốn hiểu văn hoá Việt phải nhìn nó trong tính toàn vẹn vừa yếu vừa mạnh, vừa hạn chế vừa bền vững. Ông chỉ ra những thiếu hụt của văn học, nghệ thuật, tôn giáo và khoa học kỹ thuật, nhưng đồng thời nhấn mạnh nền tảng nhân bản mà các dân tộc khác khó có được. Con người Việt luôn biết đặt đạo lý và tình nghĩa lên trên quyền lực hay tri thức thuần lý. Sự chọn lọc và dung nạp khéo léo từ Nho – Phật – Lão tạo nên bản lĩnh mềm dẻo mà sâu sắc. Đó là lý do vì sao dân tộc ta, dù nhỏ bé, vẫn trường tồn qua nghìn năm thử thách. Bài viết trở thành một bản “tuyên ngôn” về giá trị văn hoá như sức mạnh tinh thần của sự tồn tại dân tộc.

Tóm tắt 27

Tư tưởng trung tâm của Trần Đình Hựu trong “Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” là quan niệm về tính nhân bản như linh hồn của bản sắc Việt. Ông không đi tìm vinh quang bên ngoài, mà hướng vào chiều sâu nội tâm, nơi lưu giữ phẩm tính dân tộc. Theo ông, văn hoá Việt không phải nền văn hoá của vĩ nhân, mà là của cộng đồng nhân hậu và sống hài hoà. Những yếu tố như tính thiết thực, sự linh hoạt, tinh thần dung hoà không chỉ là đặc điểm xã hội, mà còn là triết lý sống. Chúng phản ánh trí tuệ mềm của người Việt: biết ứng biến, biết chịu đựng, biết sống chan hòa trong biến động. Qua lập luận ấy, Trần Đình Hựu khẳng định: giá trị văn hoá Việt nằm ở chiều sâu nhân tính chứ không ở độ lớn vật chất hay tư tưởng.

Tóm tắt 28

“Nhìn về vốn văn hoá dân tộc” của Trần Đình Hựu là một công trình vừa mang tính phê bình, vừa mang tính khơi mở. Bằng cái nhìn văn hoá học hiện đại, ông lý giải sự tồn tại của dân tộc Việt qua cấu trúc tinh thần của nó, nơi kết hợp giữa cái thực tế và cái nhân văn. Tác giả xem truyền thống như ký ức tập thể, trong đó ẩn chứa sức mạnh dung hoà mọi khác biệt. Ông cho rằng người Việt có thể chưa sáng tạo được những hệ tư tưởng lớn, nhưng đã tạo ra một “đạo sống”: sống thuận tự nhiên, thuận lòng người. Ở đó, Nho giáo rèn đạo lý, Phật giáo gieo từ bi, Lão – Trang nuôi dưỡng tự tại, và tất cả được quy tụ trong cốt lõi nhân nghĩa Việt Nam. Bài viết trở thành lời tự nhận thức sâu sắc: muốn hiện đại hoá, trước hết phải hiểu mình là ai trong dòng chảy văn hoá.

Bố cục

- Phần 1 (từ đầu đến “chắc chắn có liên quan gần gũi với nó”): Nêu một số nhận xét về vấn đề văn hóa của dân tộc

- Phần 2 (tiếp đó đến “để lại dấu vết khá rõ trong văn học”): Đặc điểm của văn hóa Việt Nam

- Phần 3 (còn lại): Con đường hình thành bản sắc văn hóa dân tộc

Nội dung chính

Đoạn trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc thuộc phần II bài Về vấn đề đặc sắc văn hóa dân tộc. Nội dung của đạn trích này chủ yếu xoay quanh những nhận định mang tính bao quát về bản sắc văn hóa Việt Nam.

Tìm hiểu chung

1. Xuất xứ

Trích từ phần II, bài tiểu luận “Vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc”, in trong cuốn “Đến hiện đại từ truyền thống

2. Đề tài

Văn hóa dân tộc

3. Thể loại

Nghị luận văn học

4. Phương thức biểu đạt

Nghị luận

5. Ngôi kể

Ngôi thứ 3


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 12 - Kết nối tri thức - Xem ngay

Group 2K8 ôn Thi ĐGNL & ĐGTD Miễn Phí