Đề ôn hè Văn 6 lên 7 - Đề 5


[…] (1) Ông đã đi tìm con nhỏ gần mười hai năm. Lúc Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà. Cả nhà tong tả đi tìm nhưng mãi con nhỏ không quay lại. Vợ ông ôm cái áo con Cải khóc, bảo chắc là ông để bụng chuyện nó là con của chồng trước nên ngược đãi, hà khắc, đuổi xua.

Đề bài

I. ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

CẢI ƠI

[…] (1) Ông đã đi tìm con nhỏ gần mười hai năm. Lúc Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà. Cả nhà tong tả đi tìm nhưng mãi con nhỏ không quay lại. Vợ ông ôm cái áo con Cải khóc, bảo chắc là ông để bụng chuyện nó là con của chồng trước nên ngược đãi, hà khắc, đuổi xua. Ông đau mà không nói được một lời, ông đã nâng niu nó khi mới thôi nôi, đã vui khi có người bảo con nhỏ giống ông in hệt (dù biết họ khen khơi khơi, khen bổng trên trời), đã sướng rơn khi nó gọi tiếng ba ơi, con Cải đi rồi, ông đã xuống nước mắt khi đi qua chiếc giường trước kia nó ngủ. Có bữa, ông hì hụi ém mùng, rồi ngồi một góc, nhìn chiếu gối thênh thang, lòng chết điếng vì nỗi nhớ con, vì lo nó lưu lạc giữa đời. Như thế mà ông không thương nó sao? Như thế mà là không thương à? Nhà buồn u buồn ám, vì đã ít người rồi bây giờ lại chẳng nhìn, chẳng cười nói với nhau. Sau, người ta còn đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào, họ kìn kìn lại coi (ai mà giàu tưởng tượng vậy không biết). Ông khăn gói bỏ xứ ra đi, bụng dạ đinh ninh dứt khoát tìm được con Cải về.

[…] (Tóm tắt đoạn lược: Biển người mênh mông, tìm đâu cho thấy, vậy là ông xin làm chân sai vặt cho đoàn ca múa nhạc, trước giờ diễn sẽ xin nói vài câu trên sân khấu: “Cải ơi! Ba là Năm Nhỏ nè con”. Khi đoàn ca múa nhạc giải tán ông theo thằng Thàn (ca sĩ ở đoàn ca múa nhạc) về ở ngã Ba Sương, đi bán xe kẹo kéo, khuya thì đậu ở ngã ba nhắn tìm con “Cải ơi!”, tiếng gọi nghe ngoắc ngoải cả một vùng. Một đêm…)

(2) Thàn giật mình tỉnh giấc, không thấy ông già, nó ngật ngừ ngồi dậy, trên bụng rớt xuống một gói tiền. Xe kẹo kéo vẫn còn nguyên, Thàn kéo cửa bước ra ngoài. Ngã ba Sương đã tắt đèn, những con đường hun hút mù mịt dưới mưa, như không cần biết đến từ đâu, chỉ biết gặp ở đây, phút này. Thằng Thàn làu bàu, hỏng biết ông già chừng này mà đi đâu vậy cà.

(3) Ông Năm đi ăn trộm chớ đâu. Ông lội bộ gần năm cây số trong mưa sụt sùi vô trong xóm, ghé chỗ lò mổ, dắt đôi trâu đem đi. Ông làm gọn gàng như với đôi trâu ở nhà. Sáng ra ông trở lại, ghé đúng ngôi nhà có hàng so đũa cặp mé lộ, ông thấy một đám người đang tao tác đứng ngồi, ông hỏi, mua trâu hôn, tui kẹt tiền đem bán đây nè. Chủ nhà chạy ra la lên, trời ơi, bắt ổng lại, ổng ăn trộm của tôi. Ông Năm giả đò hết hồn, nhưng trong bụng thấy trúng ý, bảo, từ từ, tui có chạy đâu mà sợ. Người ta đưa ông lên ấp, ấp giải lên xã, ông luôn miệng nhắc, mấy chú nhớ kêu đài truyền hình xuống nghen, phải quay tui để dân người ta cảnh giác. May, đài tỉnh xuống thật, phóng viên một tờ báo cũng chạy theo, dọc đường hăm hở rút sẵn tít "Đạo tặc đãng trí" (thì ai cũng tưởng vậy). Cái cách đời nhảy xổ vào lỗi lầm của người khác thiệt là tưng bừng. Họ phỏng vấn ông chủ lò mổ, phỏng vấn trưởng công an xã, cuối cùng, ông Năm xin được nói đôi lời, còn dặn, mấy chú làm ơn đừng cắt bỏ tiếng tui, rằng "Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng, chứ đôi trâu cộ nhằm nhò gì... Về nghen con, ơi Cải...".

(4) Nghe đâu, hôm đó, nhiều người rơi nước mắt, vì vậy mà vụ trộm trâu không được lên ti vi, sống giữa cái rẻo đất nhân hậu này nhiều khi cũng hơi phiền. Nghe đâu, hôm đó đài truyền hình có đưa tin nhưng chỉ thấy ông già nhép miệng một cách tuyệt vọng. Như đã nói, nhà đài người ta chớ có phải chợ trời đâu, mà có thể thoải mái gọi, "Cải ơi!"

(Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003, tr.7 – 16)

Câu 1. Xác định nhân vật chính trong đoạn trích trên.

Câu 2. Đoạn trích trên được kể theo ngôi thứ mấy?

Câu 3. Thành phần phụ chú trong câu văn: Ông đau mà không nói được một lời, ông đã nâng niu nó khi mới thôi nôi, đã vui khi có người bảo con nhỏ giống ông in hệt (dù biết họ khen khơi khơi, khen bổng trên trời), đã sướng rơn khi nó gọi tiếng ba ơi, con Cải đi rồi, ông đã xuống nước mắt khi đi qua chiếc giường trước kia nó ngủ có tác dụng gì?

Câu 4. Tìm những chi tiết miêu tả nhân vật ông Năm trong đoạn (1) của văn bản. Qua những chi tiết vừa tìm được, em hiểu gì về nhân vật này?

Câu 5. Như đã nói, nhà đài người ta chớ có phải chợ trời đâu, mà có thể thoải mái gọi, "Cải ơi!". Hành trình tìm con của ông Năm nhỏ vẫn tiếp diễn trong vô vọng. Em sẽ làm gì khi bắt gặp một hoàn cảnh như ông Năm nhỏ?

II. VIẾT (6.0 điểm)

Câu 1. (2.0 điểm)

Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật ông Năm nhỏ trong đoạn trích phần đọc hiểu.

Câu 2 (4.0 điểm)

Trong tác phẩm “Cải ơi” của Nguyễn Ngọc Tư có câu: “Cái cách đời nhảy xổ vào lỗi lầm của người khác thiệt là tưng bừng”. Từ nội dung đoạn trích trên và hiểu biết của bản thân, hãy viết bài văn (khoảng 400 chữ) trình bày suy nghĩ của em về vấn đề: Chúng ta nên làm gì trước lỗi lầm của người khác?

Lời giải chi tiết

Phần I. ĐỌC HIỂU 

Câu 1

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản và xác định nhật chính xuyên suốt văn bản

Lời giải chi tiết:

Nhân vật chính là ông Năm Nhỏ.

Câu 2

Phương pháp giải:

Dựa vào lời của người kể chuyện

Lời giải chi tiết:

Đoạn trích được kể theo ngôi thứ ba (người kể chuyện giấu mình).

Câu 3

Phương pháp giải:

Xác định thành phần phụ chú và nêu tác dụng

Lời giải chi tiết:

- Thành phần phụ chú thể hiện sự ý nhị, tinh tế và tự ý thức của ông Năm.

- Dù biết lời khen chỉ là xã giao, ông vẫn vui sướng khi thấy con giống mình.

- Qua đó, làm nổi bật tình thương chân thành và sâu sắc của ông dành cho con, càng khiến người đọc thêm xúc động.

Câu 4

Phương pháp giải:

Đọc và xác định các chi tiết

Lời giải chi tiết:

- Chi tiết tiêu biểu:

+ “Ông đã đi tìm con gần mười hai năm”

+ “Ôm mùng ngồi một góc… lòng chết điếng vì nhớ con”

+ “Ông đau mà không nói được một lời…”

+ “Đã nâng niu nó khi thôi nôi… sướng rơn khi gọi tiếng ba ơi”

- Cảm nhận:

+ Ông Năm là người cha giàu tình cảm, tận tụy, thủy chung, có nội tâm sâu sắc.

+ Ông mang trong mình nỗi đau âm thầm, không trách con mà chỉ thương con, sẵn sàng hy sinh, vượt qua dị nghị để tìm lại con bằng mọi giá.

Câu 5

Phương pháp giải:

Từ nội dung nêu suy nghĩ của em

Lời giải chi tiết:

Gợi ý:

- Gửi lời động viên, chia sẻ chân thành.

- Cố gắng kết nối thông tin, lan tỏa giúp ông tìm con (qua mạng xã hội, người quen…).

- Nếu có điều kiện, sẽ hỗ trợ vật chất, tạo điều kiện để ông duy trì hành trình tìm kiếm.
→ Bởi vì sự đồng cảm và hành động nhỏ có thể mang lại niềm hy vọng lớn.

PHẦN II. VIẾT

Câu 1

Phương pháp giải:

Đọc kĩ văn bản

Chú ý các từ ngữ, chi tiết miêu tả nhân vật ông Năm Nhỏ

Vận dụng thao tác lập luận, phân tích

Lời giải chi tiết:

1. Mở đoạn:

- Giới thiệu nhân vật ông Năm Nhỏ trong truyện ngắn "Cải ơi" của Nguyễn Ngọc Tư.

- Khẳng định: Ông là hình ảnh người cha giàu tình yêu thương, thủy chung và đầy hy sinh.

2. Thân đoạn:

a. Tình yêu thương sâu nặng của ông dành cho con:

- Tìm con suốt 12 năm trời không mệt mỏi, mặc cho nắng mưa, nghèo khó.

- Nỗi đau âm thầm khi con bỏ đi: nhìn giường con trống, ém mùng, rơi nước mắt…

- Nhớ từng kỷ niệm nhỏ: cái áo cũ, tiếng gọi “ba ơi”, chiếc giường con nằm…

b. Sự hy sinh và nỗ lực trong vô vọng:

- Làm chân sai vặt cho đoàn ca nhạc để có cơ hội gọi tên con trước công chúng.

- Bán kẹo kéo, đứng nơi ngã ba mỗi tối gọi con như một nghi thức hy vọng.

- Ăn trộm trâu không vì tham lam mà để được quay truyền hình — một cơ hội hiếm hoi để nhắn nhủ con.

c. Tấm lòng bao dung, nhân hậu:

- Không oán trách con dù bị hiểu lầm, vu oan.

- Coi trọng tình cha con hơn danh dự cá nhân, sẵn sàng chịu điều tiếng.

- Thể hiện lòng vị tha và trái tim giàu cảm xúc của một người cha già nua.

e. Kết đoạn:

- Khẳng định ông Năm là hình ảnh xúc động về tình cha trong văn học hiện đại.

- Qua nhân vật, người đọc hiểu hơn về giá trị của tình thân, sự thấu hiểu và yêu thương trong gia đình.

Câu 2

Phương pháp giải:

Xác định vấn đề cần bàn luận

Liên hệ thực tế

Vận dụng thao tác lập luận, kĩ năng viết bài

Lời giải chi tiết:

1. Mở bài:

- Dẫn dắt từ câu nói trong văn bản: “Cái cách đời nhảy xổ vào lỗi lầm… tưng bừng”.

- Nêu vấn đề: Cần có cách ứng xử đúng đắn và nhân văn trước lỗi lầm của người khác.

2. Thân bài:

a. Giải thích vấn đề:

- Lỗi lầm là điều không tránh khỏi trong cuộc sống của mỗi người.

- Ứng xử trước lỗi lầm người khác là thước đo của sự tử tế và trưởng thành.

b. Thực trạng:

- Nhiều người có xu hướng phán xét, “nhảy xổ vào lỗi lầm” mà không tìm hiểu hoàn cảnh.

- Người mắc lỗi bị cô lập, bêu riếu, thậm chí chịu những tổn thương lớn về tinh thần.

c. Giải pháp

- Thấu hiểu và lắng nghe trước khi kết luận.

- Góp ý, phê bình mang tính xây dựng, không sỉ nhục hay xúc phạm.

- Tạo cơ hội cho người khác sửa sai, tin vào sự thay đổi và trưởng thành.

- Tránh hùa theo đám đông, giữ chính kiến, hành xử bằng trái tim nhân hậu.

d. Ý nghĩa

- Giúp người mắc lỗi có cơ hội sửa chữa, làm lại.

- Xây dựng một xã hội bao dung, nhân văn hơn.

3. Kết bài:

- Nhắc lại quan điểm: Ứng xử trước lỗi lầm người khác cần lòng nhân hậu, sự bình tĩnh và tử tế.

- Kêu gọi mỗi người học cách bao dung để tạo ra một cộng đồng sống đẹp, nhân ái hơn.


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

Tham Gia Group Dành Cho Lớp 6 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí