Văn bản Tác gia Nguyễn Trãi>
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), nhưng lớn lên cùng gia đình ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội).
Tổng hợp đề thi giữa kì 1 lớp 10 tất cả các môn - Kết nối tri thức
Toán - Văn - Anh - Lí - Hóa - Sinh - Sử - Địa...
Tác gia Nguyễn Trãi
I. TIỂU SỬ
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), nhưng lớn lên cùng gia đình ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Thân phụ Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh, đỗ Thái học sinh dưới triều Trần thân mẫu là Trần Thị Thái - con quan Tư đôi Trần Nguyên Đán.
Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh và làm quan cùng cha dưới triều Hồ. Năm 1407, triều Hổ sụp đổ, giặc Minh bắt Nguyễn Phi Khanh đưa về Trung Quốc và giam lỏng Nguyễn Trãi ở thành Đông Quan, Một gian sau (khoảng năm 1423), Nguyễn Trãi tìm vào Lam (Thanh Hoá) theo giúp Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách (Sách lược đánh dẹp giặc Minh). Ông được Lê Lợi tin dùng và đã có đóng góp đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Năm 1427, cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế và giao cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo.
Trong thời gian Lê Thái Tổ trị vì cũng như đầu triều Lê Thái Tông, nội bộ triều đình nảy sinh xung đột, nhiều bậc công thần bị sát hại, Nguyễn Trãi cũng bị nghi kị.
Năm 1437, ông xin về ở ẩn tại Côn Sơn (Hải Dương). Năm 1440, vua Lê Thái Tông mời Nguyễn Trãi ra giúp nước. Ông cảm kích nhận ơn tri ngộ. “Thương thần như con ngựa già còn ham rong ruổi; xem thần như thông qua năm rét cảng dạn tuyết sương” (Biểu tạ ơn). Năm 1442, Nguyễn Trãi bị bọn gian thần vu cho tội giết vua và phải chịu án “tru di tam tộc”), thơ văn bị tiêu huỷ, cấm đoán. Đến tận năm 1461, vua Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi và năm 1467 ban lệnh tìm kiếm, cho khắc in di cảo3) của ông.
Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hoá thế giới”.
II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
Nguyễn Trãi để lại cho hậu thế một di sản văn hoá quý giá, trong đó nổi bật là những sáng tác được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, thuộc nhiều lĩnh vực: quân sự, chính trị, lịch sử, địa lí, văn học. Tác phẩm chữ Hán gồm: Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Lam Sơn thực lục, Dư địa chí, Chí Linh sơn phú và Băng Hồ đi sự lục; sáng tác chữ Nôm có; Quốc âm thi tập,
1. Nội dung thơ văn
Thơ văn Nguyễn Trãi phong phú, đa dạng về đề tài, cảm hứng; giàu giá trị tư tưởng và đậm tính trữ tình. Nổi bật trong các tác phẩm của ông là tư tưởng nhân nghĩ), tình yêu thiên nhiên và những ưu tư về thế sự.
Tư tưởng nhân nghĩa có nguồn gốc từ Nho giáo nhưng đã được Nguyễn Trãi tiếp thu một cách chọn lọc, sáng tạo. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa trước hết là thương dân; lấy cuộc sống bình yên, no ấm của nhân dân làm mục tiêu cao nhất: Vì dân lo trước, dạ khôn nguôi (Mạn hứng, bài 2). Nguyễn Trãi luôn khẳng định vai trò và sức mạnh của nhân dân: Lật thuyền mới biết dân như nước (Quan hải – Ức Trai thi tập). Đặc biệt, ông không chỉ thương dân mà còn biết tôn trọng dân, biết ơn dân. Tư tưởng trọng dân, ơn dân bao trùm, xuyên suốt sáng tác của
Nguyễn Trãi:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
(Bình Ngô đại cáo)
Ăn lộc đều ơn kẻ cấy cày.
(Bảo kinh cảnh giới, bài 19 – Quốc âm thi tập)
Là một nhà Nho, lí tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi dĩ nhiên gắn liền với tư tưởng trung quân: Quân thân chưa báo lòng cạnh cánh (Ngôn dí, bài 7 – Quốc âm thi lập); với giấc mơ về một triều đại vua sáng, tôi hiền. Nhung xét đến cùng, nội dung cốt lõi trong tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi là tình yêu dành cho nhân dân, là khát vọng xây dựng một đất nước độc lập, thái bình, hưng thịnh.
Tình yêu thiên nhiên là nguồn cảm hứng lớn trong thơ văn Nguyễn Trãi (đặc biệt là thơ). Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập chúa đụng cả một thế giới thiên nhiên đa dạng vừa mĩ lệ vừa bình dị, gần gũi. Có thể tìm thấy trong kho báu thiên nhiên “đầy qua nóc" ấy khung cảnh tráng lệ của của biển Bạch Đằng, Vân Đồn, Thần Phù Vọng Doanh; vẻ hùng vĩ, nguyên sơ của Yên Tử Côn Sơn; chốn thôn quê bình dị, dân dã, thân thuộc với những đất cày ngõ ai, giậu mùng tơi, lãnh mùng, bè muống,... Tâm hồn Nguyễn Trãi rộng mở, tinh tế, lãng mạn -nâng niu từng vẻ đẹp, từng khoảnh khắc giao hoà cùng thiên nhiên
Cây rợp tán che am mát
Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn.
Rùa nằm Tạc lẩn nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con.
(Ngôn chi, bài 20 – Quốc âm thi tập)
Một đời ôm mối “ưu dân, ái quốc" nên hồn thơ Ức Trai trĩu nặng suy tu trước thế sự đen bạc. Thơ ông có nhiều chiêm nghiệm buồn về nhân tình thế thái; có cả những cay đắng, thất vọng, đau đớn trước một thực tại hỗn độn, bất công, ngang trái:
Phượng những tiếc cao, điều hữu liệng;
Hoa tì hay héo, cỏ thường tươi.
(Tự thuật, bài 9 – Quốc âm thi tập)
Nguyễn Trãi đã đổi diện với thực tại ấy bằng tâm thế, tư thế của cây tùng, cây bách:
Một mình lạt thuở ba đông (Tùng - Quốc âm thi lập), bằng cốt cách của hoa cúc, hoa sen:
Sen nào có bén trong lầm (Thuật hứng, bài 25 – Quốc âm thi tập). Ông lựa chọn quan niệm sống, triết lí sống thanh cao, cứng cỏi, kiêu hãnh và lí tưởng cao cả:
– Chớ cây sang mà ép nề.
Lời chẳng phải cuốn không nghe.
(Trần tinh, bài 8 – Quốc âm thi tập)
– Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có trí, có anh hùng.
(Bảo kinh cảnh giỏi, bài 5 – Quốc âm thi tập)
2. Đặc điểm nghệ thuật
Thơ văn Nguyễn Trãi kết tinh nhiều thành tựu nghệ thuật đặc sắc; góp phần quan trọng vào sự phát triển, hoàn thiện một số thể loại văn học trung đại Việt Nam: văn chính luận, thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi, đặc biệt là những thư giao với nhà Minh luôn đạt đến trình độ mẫu mục. Nguyễn Trãi đã vận dụng một cách triệt để và sắc sảo các mệnh đề tư tưởng, đạo đúc của Nho giáo và chân lí khách quan của đời sống để tạo dụng nền tảng chính nghĩa vững chắc cho những luận điểm lớn được nếu lên. Nhiều văn bản được mở đầu bằng triết lí nhân nghĩa: “Mưu tính việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, hoàn thành công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu” (Lại thư trả lời Phương Chính – Quân trung từ mệnh tập) hoặc bằng những quy luật tất yếu:
“Tôi nghe: Trời không che riêng ai, đất không chở riêng ai, mặt trời mặt trăng không chiếu riêng ai." (Lại thư cho Vương Thông – Quân trung từ mệnh tập).
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi còn được tạo nên nhờ khả năng bám sát từng đối tượng và tình hình thời sự, chiến sự sự kết hợp giữa lí lẽ sắc bén với dẫn chúng xác đảng; cách lập luận và bố cục chặt chẽ; ngôn ngữ hàm súc, kết hợp nhiều phong cách ngôn ngữ và nhiều phương thúc biểu đạt, giọng điệu truyền cảm. Lê Quý Đôn tùng ca ngợi Nguyễn Trãi là cây bút viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi hầu hết được sáng tác bằng các thể thơ Đường luật, đạt tới sự nhuần nhuyễn, điêu luyện; ngôn ngữ cô đúc; nghệ thuật tả cảnh, tả tình tinh tế, tài hoa. Nghệ thuật trữ tình vẫn mang nét trang nhã, hàm súc “ỹ tại ngôn ngoại của thơ cổ phương Đông nhưng không theo hướng cầu kì, khuôn thước. Ý tình trong nhiều bài thơ vừa in đậm dấu ấn cá nhân vừa có giá trị tư tưởng sâu sắc (Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác, Chu trung ngẫu thành, Tự thán, Thanh minh,... ). Hình tượng thiên nhiên trong Úc Trai thi tập khi thì phóng khoảng, hùng vĩ, diễm lệ, khi thì thanh sơ, thơ mộng (Thần Phù hai khẩu, Đề Yên Tử sơn Hoa Yên tự, Vân Đồn, Tức hứng, Mộ xuân tức sự, Trại đầu xuân độ,...).
Thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi được đánh giá là đỉnh cao của dòng thơ quốc âm (tiếng Việt) thời trung đại. Trong Quốc âm thi tập, ông dường như đã có ý thức sáng tạo một thể thơ riêng khi đưa câu thơ lục ngôn") xen vào bài thơ thất ngôn ở các vị trí đa dạng, linh hoạt, đồng thời rất chú ý Việt hoá nhiều đề tài, thi liệu mượn từ văn học Trung Quốc.
Ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi giản dị, đậm đà tính dân tộc; sử dụng nhiều từ láy, thành ngữ, tục ngữ và lời ăn tiếng nói của dân chúng
Tuy ai thì lại làm nuôi miệng.
Làm biếng ngôi ăn lở núi non.
(Bảo kinh cảnh giỏi, bài 22 – Quốc âm thi tập)
Thơ văn Nguyễn Trãi xứng đáng là tập đại thành của năm thế kỉ văn học trung đại Việt Nam tỉnh đến mốc thế kỉ XV.
Ông là tác gia có đóng góp đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng nền văn học Đại Việt sau thời gian nước ta bị quân xâm lược nhà Minh đô hộ và thi hành chính sách huỷ diệt văn hoá.
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 10 - Kết nối tri thức - Xem ngay