Phân tích cảnh "Đánh nhau với cối xay gió" của hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê>
Cuốn tiểu thuyết “Đôn Ki-hô-tê” là một kiệt tác sáng ngời chủ nghĩa nhân văn cao đẹp, là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất thời Phục hưng.
- Cảm nhận của em khi đọc đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió (tiểu thuyết Đôn-ki-hô-tê của Xéc-van-téc
- Phân tích nhân vật Đôn Ki-hô-tê trước khi đánh nhau với cối xay gió (Đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió - Xéc-van-téc).
- Phân tích cảnh "Đánh nhau với cối xay gió" của hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê
- Cảm nhận của em khi đọc đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió (tiểu thuyết Đôn-ki-hô-tê của Xéc-van-téc
- Phân tích nhân vật Đôn Ki-hô-tê trước khi đánh nhau với cối xay gió (Đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió - Xéc-van-téc).
Dàn ý
1. Mở Bài
- Một trong những tác phẩm nổi tiếng và làm nên tên tuổi của Xéc-van-tét là tiểu thuyết Đôn Ki-hô-tê, tuy đã ra đời từ rất lâu, thế nhưng những giá trị mà nó để lại còn lưu giữ đến tận bây giờ, được nhiều độc giả yêu thích.
- Một trong những cảnh ấn tượng và đáng nhớ nhất của tác phẩm phải kẻ đến cảnh Đôn-ki-hô-tê, đồng thời là nhân vật chính của tiểu thuyết, đánh nhau với cối xay gió.
2. Thân Bài
a. Trong trận chiến:
- Đôn Ki-hô-tê hoang tưởng cho rằng cối xay gió, là kẻ thù, là những kẻ khổng lồ cần tiêu diệt.
- Không nghe lời can gián giải thích của Xan-chô mà cứ thế xông vào cối xay gió, vừa phát ra những lời đe dọa như một hiệp sĩ => Bảo thủ đến cùng cực.
=> Dù mắc chứng hoang tưởng nặng nhưng ta cũng nhận thấy được tinh thần thiện chiến, dũng cảm, lòng tự tin của Đôn Ki-hô-tê, chắc hẳn rằng ông ta đã có một ước mơ thật đẹp về việc thực thi công bằng.
b. Sau khi thua trận:
- Đôn Ki-hô-tê đã phải gánh chịu hậu quả vô cùng đau đớn: "ngọn giáo gãy tan tành, kéo theo cả ngựa và người văng ra xa". => Đôn Ki-hô-tê cũng thật đáng thương, tội nghiệp.
- Cú ngã trời giáng khiến ông ta không thể nào động đậy được, thế nhưng nghe Xan-chô Pan-xa xót xa, trách cứ, ông ta lại lập tức phản biện bằng lý lẽ của một hiệp sĩ rằng "chuyện chinh chiến thường biến hóa khôn lường chứ không như những chuyện khác".
=> Điều đó minh chứng rằng Đôn Ki-hô-tê vẫn chưa hề tỉnh ngộ, vẫn đang chìm trong ảo tưởng và lối suy nghĩ kỳ dị của mình, không lối thoát.
=> Đôn Ki-hô-tê là người có suy nghĩ hoang tưởng, hoang đường, dẫn tới những hành động điên rồ, ngược lại bác nông dân Xan-chô Pan-xa lại là người có nhận thức thực tế và tỉnh táo.
c. Trên đường tiếp tục cuộc phiêu lưu:
- Những sự kiện nhỏ diễn ra trong đời sống hằng ngày lại càng làm ta nhận thức rõ tính cách của từng nhân vật, cũng như sự đối lập của cả hai.
- Đôn Ki-hô-tê thì có lý tưởng có khát vọng, luôn trên đường thực hiện hoài bão, ông dũng cảm, hão huyền, còn Xan-chô ngược lại thích cuộc sống yên ả, đời thường, nhát gan nhưng lại được cái thực tế.
3. Kết Bài
- Hai nhân vật trong câu chuyện được dựng lên từ những hình tượng hoàn toàn đối lập, Đôn Ki-hô-tê tuy ảo tưởng và điên rồ nhưng lại có những phẩm chất đáng quý, còn Xan-chô tuy tỉnh táo, tốt bụng nhưng lại hướng về những thứ tầm thường, không có hoài bão ước mơ.
→ Đó chính là những mặt tích cực và tiêu cực trong mỗi con người, chúng đã được Xéc-van-tét chia đôi thành hai nhân vật thật thú vị, dễ khiến người đọc liên tưởng và ghi nhớ, đồng thời cũng học được nhiều bài học trong cuộc sống thực tế.
Bài mẫu
Cuốn tiểu thuyết “Đôn Ki-hô-tê” là một kiệt tác sáng ngời chủ nghĩa nhân văn cao đẹp, là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất thời Phục hưng. Nó đã làm tên tuổi Xéc-van-téx trở thành bất tử, sống mãi trong lòng nhân loại cùng với những tên tuổi lừng danh như Sêcxpia, Ra-bờ-le,... - vị trí vinh quang của những người đặt nền móng cho nền văn học thời đại mới.
Xéc-van-téx đã viết cuốn tiểu thuyết này trong vòng 10 năm (1605-1615), ông viết trong nghèo khổ và nghiệt ngã của cuộc đời. Khi tập II ra đời, cuốn tiểu thuyết trọn bộ thì chỉ một năm sau nhà văn qua đời.
Đôn Ki-hô-tê xuất thân là một lão quý tộc nghèo ở nông thôn tên là Ki-ha-đa. Người lão gầy gò, cao lênh khênh, và trạc năm chục tuổi. Lão say mê các truyện hiệp sĩ phiêu lưu, đầu óc lão ngày một trở nên mụ mẫm, chìm đắm trong mộng tưởng hão huyền. Lão mơ ước trở thành một hiệp sĩ giang hồ đi khắp nước Tây Ban Nha, phò đời cứu nguy, diệt trừ lũ khổng lồ yêu quái, thiết lập lại trật tự và công lí, để lại bao chiến công oanh liệt cho đời.
Con ngựa gầy được lão phong cho cái tên rất oai: chiến mã Rô-xi-nan-tê. Lão tự xưng là hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê xứ Man-tra. Anh nông dân lùn, cục mịch được lão phong tước: giám mã Xan-trô Pan-xa. Đã là hiệp sĩ thời thượng thì phải có tình nhân. Lão nhớ ngay một phụ nữ mà lão thầm yêu trộm nhớ thời còn trai trẻ, lão liền ban cho ả nhà quê này một cái tên rất quý tộc, mĩ miều: Công nương Đuyn-xi-nê-a đuy Tô-bô-xô. Lão làm lễ thụ phong trước ngày lên đường chinh chiến. Có một chi tiết khá thú vị là trong lễ thụ phong này tại quán trọ, hai ả gái điếm được nhà hiệp sĩ xứ Man-tra ban tước thành 2 công nương vô cùng tôn quý. Hài hước nhất là lão tìm được binh khí, giáp trụ của tổ tiên đã han gí, rồi lão sửa chữa, đánh bóng lại để tự vũ trang cho mình.
Đó là những điều cần biết về hiệp-sĩ Đôn Ki-hô-tê khi chúng ta tìm hiểu chuyện “Đánh nhau với cối xay gió" của lão. Sau trận đánh nhau với bọn lái buôn vì họ không chịu nhận công nương Đuyn-xi-nê-a là đẹp nhất trần gian, Đôn Ki-hô-tê bị nện một trận nhừ tử, bị bắt đưa về làng một thời gian, giờ đây lão lại ra đi với mộng chiến công mới. Lần này có quan giám mã Xan-trô Pan-xa theo hầu. Trận đánh nhau với lũ cối xay gió là một trận đánh nảy lửa, là đỉnh cao của màn hài kịch, chế giễu những kẻ ngông cuồng, mê muội, luôn luôn sống trong mộng tưởng hão huyền.
Đoạn văn hài hước hóm hỉnh. Nghệ thuật dựng cảnh và kể chuyện rất tài tình làm hiện lên một trận đánh thời trung cổ. Có dàn trận. Có đấu khẩu trước lúc giao phong. Có cảnh đánh nhau dữ dội, quyết tử. Có bãi chiến trường sau trận đánh diễn ra. Hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê là một “người hùng” đích thực sống trong ảo tưởng hão huyền, sự mụ mẫm đã lên đến cực độ, cối xay gió mà lão cho là khổng lồ quái vật! Ngôn ngữ khoác lác, trống rỗng, đại ngôn, cũng thét vang lúc xung trận. Cử chỉ, điệu bộ và hành động cũng rất tự tin, đàng hoàng, cực kì oai phong lẫm liệt! Đúng là coi cái chết nhẹ tựa lông hồng! Hình ảnh Đôn Ki-hô-tê nằm không cựa quậy trên mặt đất trước cặp mắt của quan giám mã là nét vẽ biếm họa đặc sắc nhất có giá chế giễu tầng lớp hiệp sĩ thời trung cổ đã lỗi thời! Người đọc không nhịn được cười khi lão hiệp sĩ cầu cứu tình nương trước lúc giao đấu!
Trận đánh diễn ra vào lúc ban trưa. Từ xa nhìn thấy ba bốn chục cối xay gió giữa đồng, hiệp sĩ xứ Man-tra reo lên vì “vận may” đã tới, quân địch là “mấy chục tên khổng lồ hung tợn ", mà cánh tay mỗi đứa dài tới gần 2 dặm. Không biết là lão có hay mỗi dặm dài đến 432 mét, đâu phải vừa? Lão phải kết liễu đời lũ khổng lồ yêu quái này, trước là để thu chiến lợi phẩm mà trở nên giàu sang phú quý, sau nữa là quét sạch cái giống xấu xa này khỏi trái đất và để “phụng sự Chúa". Phải công bằng mà nói rằng, tuy lão có "nhìn gà hóa cáo" nhưng mục tiêu chiên đấu của lão không kém phần thiêng liêng! Mặc dù giám mã Xan-trô Pan-xa hết lời can ngăn, nhưng lão hiệp sĩ bỏ ngoài tai hết. Trước khi đánh nhau, Đôn Ki-hỏ-tê ăn nói rất "hùng hồn”. Lúc thì nạt quan giám mã: “Nếu anh sợ thì hãy mau mau lánh ra xa mà cầu kinh trong lúc ta đương đầu với chúng trong một cuộc giao tranh gay go và chênh lệch". Lúc thì lão hiệp sĩ thét lớn, đằng đằng sát khí: “lũ súc sinh kia, không được chạy trấn! Có ta là hiệp sĩ một thương một mã đến đọ sức với bọn ngươi đây!”. Lúc thì oai phong lẫm liệt cảnh cáo: "Dù cho bọn ngươi cố vung nhiều cảnh hơn cả khổng lồ Bri-a-rê-ô, các ngươi cũng phải đền tội”. Trước lúc vào giao phong với lũ khổng lồ này mà cánh tay mỗi đứa dài gần bằng 2 dặm thì khổng lồ Bri-a-rê-ô xa xưa dù có đến 100 cánh tay cũng chẳng so sánh được, vì thế Đôn Ki-hô-tê không quên “cầu cứu nàng Đuyn-xi-nê-a phù hộ và giúp cho trong cơn nguy biến này”. Tư thế của lão hiệp sĩ vô cùng dũng mãnh, hiên ngang "lấy khiên che kín thân, tay lăm lăm ngọn giáo, thúc con Rô-Xi-nan-tê phi thang tới chiếc cối xay gió gần nhất”. Lão đã “đâm mũi giáo vào cánh quạt cối xay”. Tưởng là lũ khổng lồ sẽ máu đổ xương tan. Ai ngờ “gió nổi lên dữ dội, cánh quạt quay tít khiến ngọn giáo gãy tan tành”. Đây là hình ảnh lão hiệp sĩ lừng danh trên chiến địa: "Cả người lẫn ngựa ngã chổng kềnh ra đất”. Và lúc quan giám mã thúc lừa tới cứu thì đã thấy chủ tướng “nằm không cựa quậy sau cái ngã như trời giáng”.
Câu chuyện giữa hai thầy trò sau trận đánh nhau với cối xay gió cũng cực là thú vị. Chết mà nết không chừa! Bị thảm bại nhục nhã mà vẫn còn khoác lác. Trước lời an ủi của quan giám mã, Đôn Ki-hô-tê đã chỉ cho anh béo lùn biết rằng cái nghĩ cung kiếm "luôn luôn biến chuyển”, nghĩa là sự thắng, bại là chuyện bình thường. Nguyên nhân thất bại theo Đôn Ki-hô-tê rất bất ngờ vì lão pháp sư Phơ-re-xtôn đã đánh cắp mất "sách vở” bảo bối của lão. Hắn đã “thâm thù ta”, hắn đã tước mái phần vinh quang chiến thắng của ta! Đúng là khẩu khí của hiệp sĩ xứ Man-tra lừng danh thiên hạ!
Thương cho con ngựa gầy nhom “bi toạc nửa lưng” vẫn phải cõng chủ. Đôn Ki-hô-tê quyết định đi về phía cảng, hi vọng “sẽ gập được nhiều chuyện mạo hiểm khác” mà thi thố tài năng. Hiệp sĩ tỏ ra rất buồn phiền về cái giáo bị gãy. Cái vốn sách vở kiếm hiệp lại ru lão ta vào giấc mộng hão huyền. Lão nhắc tới hiệp sĩ Tây Ban Nha ngày xưa là Va-gax, giữa trận đánh, gươm bị gãy, đã nhổ cây sồi làm vũ khí tiêu diệt quân Mô-rô, nhờ thế mà trở nên bất tử với biệt hiệu "Hiệp sĩ diệt địch”, làm rạng rỡ cháu con đời đời. Kể lại câu chuyện ấy, Đôn Ki-hô-tê muốn nói lên chí hướng mình muốn theo gương người xưa, cũng sẽ nhổ cây sồi để diệt địch, sẽ lập nên “những chiến công phi thường” mà quan giám mã sẽ là người có diễm phúc được mục kích! Qua đó, ta thấy Đôn Ki-hô-tê vẫn kiêu hùng, tự tin, đầu óc anh ta quá mê muội, khoác lác đến cực độ!
Khi giám mã “thật thà” nhắc lại sự thất trận vừa qua, cái ngã chắc hẳn “làm ngài vẹo vọ hẳn đi” thì chàng hiệp sĩ hồn nhiên trả lời: "Đúng thế! Và nếu ta không kêu đau là vì các hiệp sĩ giang hồ có bị thương cũng không được rên rỉ, dù sổ cả ruột ra ngoài”. Đó cũng là một nét rất "anh hùng” của Đôn Ki-hô-tê! Khi Xan-trô tâm sự là nếu có bị gai đâm cũng kêu lên thì ông chủ tài ba đã “không nín được cười”, đĩnh đạc nói với giám mã: “cứ việc rên la” vì “cho tới nay chưa thấy sách kiếm hiệp nào ngăn cấm cả.”
Phần cuối là chuyện ăn, chuyện ngủ của hai thầy trò chàng hiệp sĩ. Hai thầy trò cùng đi giang hồ, với “lí tưởng” dẹp bất công, cứu nguy phò đời nhưng trong tâm hồn, tính cách là hai thế giới riêng biệt! Đến giờ ăn, Đồn Ki-hô-tê không hiểu vì sao mà “chưa muốn ăn". Còn Xan-trô, sau khi được phép chủ, ngồi thoải mái trên lưng lừa “ăn một cách khoái trá”, nghiêng bầu rượu "tu một hơi ngon lành". Đúng là “dĩ thực vi thiên”, Xan-trô vừa nhắm rượu, quên cả những lời hứa hẹn của chủ phong anh ta làm thống đốc sau này, vừa vui vẻ suy ngẫm về cái nghề đi tìm kiếm chuyến phiêu lưu “tuy có nguy hiểm song không đến nỗi vất vả”. Đó cũng là một nét vẽ hài hước về sự "cái miếng ăn gần, cái ước mơ xa" ở đời!
Đêm đến, hai thầy trò nằm dưới gốc cây. Giám mã sau khi đánh chén no say "làm một giấc đến sáng". Sáng dậy vừa mở mắt ra đã vớ ngay bầu rượu, bác hơi buồn vì bầu rượu đã vơi đi, mà quãng đường này khó đào đâu ra rượu để đổ vào cho đầy! Trái lại, Đôn Ki-hô-tê thì suốt đêm thao thức. Chàng đã bẻ “một cành khô” lắp vào cán gẫy làm thành một ngọn giáo! Chàng trằn trọc thâu đêm vì thương nhớ tình nương Đuyn-xi-nê-a. Chiều qua đã nhịn, sáng nay lại không ăn, chẳng phải là Đôn Ki-hô-tê bị đau nên không ăn được, mà là chàng đang sống trong mộng mị, vì chỉ "nghĩ đến người yêu cũng đủ no rồi!”
Nhân vật giám mã Xan-trô là một nhân vật phụ, một nét vẽ bổ trợ nhưng rất sống động. Một mặt, nó có giá trị làm nổi bật tính cách ngông cuồng, mụ mẫm, ôm ấp những mộng tưởng hão huyền của Đôn Ki-hô-tê về cuộc đời hiệp sĩ, mặt khác thể hiện một quan niệm sống phác thực, hồn nhiên, giản dị... của những người dân quê yêu đời, thiết thực.
‘‘Đánh nhau với cối xay gió” là một trang đời, một trong những “chiên công oanh liệt” của Đôn Ki-hô-tê hiệp sĩ xứ Man-tra đã ghi vào sử sách! Xéc-van-tex đã sử dụng thủ pháp trào lộng, phóng đại và tương phản đối lập trong kể chuyện để dựng cảnh, đã làm hiện lên một trang hiệp sĩ Tây Ban Nha thời Trung cổ đã lỗi thời! Đằng sau câu văn, dòng chữ, ta luôn luôn bắt gặp nụ cười hóm hỉnh của Xéc-van-tex. Đàng sau nụ cười chế giễu của nhà văn là sự đề cao trong một chừng mực nhất định tình yêu tự do, bình đẳng, sống thiết thực yêu đời... mang tính nhân văn.
Loigiaihay.com
Các bài khác cùng chuyên mục