Giải chuyên đề học tập Địa lí 12 CD hay, chi tiết Chuyên đề 3: Phát triển làng nghề

Giải Chuyên đề 3 Mục I. Những vấn đề chung CĐHT Địa lí 12 – Cánh diều


- Trước đây, làng nghề thường được hiểu là một cộng đồng dân cư ở nông thôn cùng sản xuất một nghề thủ công nhất định.

Tổng hợp đề thi học kì 2 lớp 12 tất cả các môn - Cánh diều

Toán - Văn - Anh - Hoá - Sinh - Sử - Địa

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

I.1

Trả lời câu hỏi mục I.1 trang 45 CĐHT Địa lí 12 – Cánh diều

Dựa vào thông tin bài học, hãy trình bày khái niệm làng nghề. Nêu ví dụ cụ thể.

Lời giải chi tiết:

- Trước đây, làng nghề thường được hiểu là một cộng đồng dân cư ở nông thôn cùng sản xuất một nghề thủ công nhất định.

- Đến năm 2006, khái niệm làng nghề được mở rộng. Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau. (Theo Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18 tháng 12 năm 2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).

- Hiện nay, khái niệm làng nghề đã thay đổi, phù hợp hơn với sự phát triển của đất nước. Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn. (Theo Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 04 năm 2018 của Chính phủ).

Quảng cáo

Lộ trình SUN 2026

I.2

Trả lời câu hỏi mục I.2 trang 47 CĐHT Địa lí 12 – Cánh diều

Dựa vào thông tin bài học, hãy trình bày đặc điểm của làng nghề. Nêu ví dụ.

Lời giải chi tiết:

- Gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp và nông thôn

+ Mối quan hệ giữa làng nghề với nông nghiệp và nông thôn được thể hiện ở nguồn gốc sản phẩm; nguyên, vật liệu; đặc điểm lao động; thị trường tiêu thụ và địa bàn sản xuất của làng nghề.

+ Hầu hết các sản phẩm của làng nghề, lúc đầu đều được sản xuất trên cơ sở tận dụng lao động, nguyên liệu tại chỗ và thời gian rảnh rỗi lúc nông nhàn, để đáp ứng nhu cầu thiết yếu hằng ngày của người nông dân. Vì thế, nông nghiệp, nông thôn vừa là nguồn cung cấp nguyên, vật liệu, lao động vừa là thị trường tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của làng nghề.

+ Trước đây, nghề phụ khi đã trở thành nghề chính, đã tách khỏi nông nghiệp nhưng vẫn không rời khỏi nông thôn. Các gia đình trong làng vừa làm ruộng, vừa làm nghề. Họ có thể tự mình trồng trọt, chăn nuôi hoặc thuê mướn người làm nông nghiệp cho gia đình. Đến thời kì công nghiệp hoá, nhiều làng nghề đã thành phố nghề, nhưng phần lớn các làng nghề ở nước ta vẫn tập trung chủ yếu ở các vùng nông thôn.

- Cơ cấu ngành nghề đa dạng, sản phẩm phong phú, nhiều sản phẩm có giá trị nghệ thuật cao 

+ Theo ngành nghề sản xuất và loại hình sản phẩm, làng nghề được phân thành nhiều nhóm, tương ứng với các ngành nghề nông thôn khác nhau.

+ Sản phẩm của làng nghề phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã và giá cả, từ hàng bình dân đến hàng cao cấp, từ công cụ sản xuất thô sơ đến máy móc, thiết bị hiện đại, tiên tiến.

+ Bên cạnh giá trị sử dụng, sản phẩm của các làng nghề truyền thống còn có giá trị nghệ thuật cao. Mỗi sản phẩm có thể coi là một tác phẩm nghệ thuật chứa đựng trong đó những đặc sắc về văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo của từng làng quê. Nhiều sản phẩm được coi là bảo vật của gia đình, dòng họ.

- Quy mô sản xuất nhỏ

+ Mục đích xuất hiện ban đầu của làng nghề là tận dụng các nguồn lực ở nông thôn nên sản xuất ở đây thường có quy mô nhỏ, thể hiện ở số lao động, mặt bằng sản xuất và doanh thu.

+ Hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh chủ yếu ở làng nghề.

+ Với hình thức này, hầu như các thành viên trong gia đình đều được huy động tham gia sản xuất. Trung bình mỗi hộ có khoảng 2 – 3 lao động thường xuyên.

+ Khu vực sản xuất ở làng nghề thường nằm xen lẫn với khu dân cư. Diện tích đất bình quân của mỗi hộ sản xuất dao động từ 250 đến 1200 m² tuỳ theo nhóm ngành nghề.

+ Phần lớn các cơ sở sản xuất ở làng nghề có doanh thu không lớn, tương ứng với quy mô lao động và mặt bằng sản xuất nhỏ.

- Kĩ thuật sản xuất chủ yếu là thủ công với nhiều bí quyết truyền thống

+ Công cụ sản xuất ở làng nghề trước đây thường rất đơn giản, thô sơ (thậm chí người thợ cũng có thể tự tạo ra). 

+ Hiện nay, rất nhiều công đoạn sản xuất đã được cơ giới hoá nhưng kĩ thuật sản xuất chính vẫn dựa chủ yếu vào đôi tay khéo léo của người thợ với những bí quyết truyền thống độc đáo. 

=> Vì thế, dù cùng sản xuất một loại sản phẩm nhưng quy trình sản xuất ở mỗi làng nghề cũng không giống nhau.

 

I.3

Trả lời câu hỏi mục I.3 trang 49 CĐHT Địa lí 12 – Cánh diều

Dựa vào thông tin bài học, hãy trình bày quá trình hình thành và phát triển làng nghề

Lời giải chi tiết:

Quá trình hình thành và phát triển của làng nghề gắn liền với lịch sử phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng nông thôn.

– Thời kì tiền sử

Nghề thủ công ở nước ta xuất hiện từ rất sớm. Các chứng cứ khảo cổ học cho thấy, ngay từ thời kì đầu Công nguyên đã xuất hiện nhiều nghề thủ công như: chế tác đá, làm đồ gốm bằng bàn xoay, mộc và sơn, dệt vải, đan lát, chế tạo thuỷ tinh, đúc đồng.... Trong đó, nghề đúc đồng phát triển mạnh nhất. Vào thời kì đồ đồng (Đông Sơn), người Việt cổ đã phát minh ra công thức hợp kim đồng thau, đồng thanh, tạo nên trống đồng tinh xảo. Đây chính là cơ sở hình thành ban đầu của nhiều làng nghề ở nước ta.

– Thời kì Bắc thuộc

Trong suốt thời kì Bắc thuộc bị các thế lực phong kiến phương Bắc đô hộ, mặc dù bị kìm hãm nhưng các làng nghề vẫn được duy trì và có những bước phát triển nhất định. Quá trình giao lưu kinh tế - văn hoá với các nước xung quanh (chủ yếu là Trung Quốc) đã thúc đẩy các nghề cũ phát triển theo hướng ngày càng tinh xảo. Nghề thuỷ tỉnh đã sản xuất được những bình, bát nhiều màu sắc. Nghề đóng thuyền, nghề mộc cũng phát triển. Nhiều ngành nghề mới xuất hiện: nghề làm giấy, nghề xây dựng.... Các minh chứng cho thấy, ngay từ thời kì này nhiều làng nghề giấy, dệt phát triển ở xung quanh Long Biên, Đại La (Hà Nội); nhiều làng nghề mộc phát triển dọc sông Hồng...

– Thời kì phong kiến độc lập

Thời kì Lý – Trần (từ thế kỉ XI đến thế kỉ XIV) là thời kì phát triển mạnh mẽ nhất của các làng nghề, trong đó nổi bật nhất là nghề dệt. Nhu cầu phát triển chùa chiền, xây dựng cung điện làm cho các làng nghề nề, mộc, rèn, đúc phát triển ở nhiều nơi. Thời kì này, cả nước có khoảng 64 làng nghề, phân bố hầu khắp lãnh thổ; trong đó, Kinh Bắc là khu vực có nhiều làng nghề nhất, tiếp đến là Thăng Long (Hà Nội).

Thời kì Lê - Nguyễn (thế kỉ XV đến XIX), các nghề dệt, nề, mộc, gốm, rèn, đúc đồng.... vẫn duy trì và phồn vinh hơn trước. Thời kì nhà Nguyễn, các làng nghề phát triển đa dạng, phong phú. Các trung tâm phát triển làng nghề: Thăng Long, Kinh Bắc, Hà Tây (cũ), Nam Định. Ở khu vực miền Trung, các làng nghề phát triển mạnh tại Thừa Thiên Huế, Hội An. Ở Nam Bộ, các làng nghề thủ công phát triển gắn liền với

công cuộc khai hoang, mở đất và sản xuất nông nghiệp như: dệt, gồm, mộc, rèn, đan lát, đóng ghe xuồng.... Những người thợ giỏi di cư từ Bắc vào Nam vừa hành nghề vừa truyền nghề và lập ra nhiều phường thợ nổi tiếng ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một. Sản phẩm của làng nghề đã được tiêu thụ ở Nhật Bản, Trung cận đông và nhiều nước phương Tây khác. Giai đoạn này, các làng nghề, phố nghề đã dần phát triển theo hướng tách khỏi sản xuất nông nghiệp.

– Thời kì Pháp thuộc (cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX)

Chính quyền thực dân Pháp xây dựng nhiều cơ sở công nghiệp và đưa vào trong nước hàng hoá ngoại nhập nên sản phẩm của làng nghề bị cạnh tranh gay gắt. Một số nghề không còn phù hợp với nhu cầu thị trường đã biến mất. Một số nghề đã biết tận dụng chính sách của thực dân, thay đổi mẫu mã, tính chất sản phẩm nên tồn tại và phát triển mạnh. Trong thời kì này, chính quyền thực dân đã thực hiện nhiều chính sách khuyến khích các ngành nghề nông thôn phát triển như mở một số trường dạy nghề, phong tặng danh hiệu cho các nghệ nhân và đặc biệt là đưa sản phẩm thủ công tham gia hội chợ, triển lãm tại Hà Nội và tại Pháp.

Nhiều nghề mới cũng được du nhập từ Pháp và các nước khác: đồ đan mây, tráng gương bằng bạc, dệt vải màu, đăng ten, hương thắp, chỉ thêu, mành mành, đồ sừng, chế biến trà tàu hay làm đá trải đường. Ngoài Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, xuất hiện nhiều địa phương có làng nghề phát triển khác ở miền Trung là Thanh Hoá, Nghệ An; ở miền Nam là Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh).

– Thời kì từ 1945 đến nay

Trước năm 1986, cơ sở sản xuất của làng nghề tập trung trong các hợp tác xã. Vì chỉ được coi là nghề phụ nên sản xuất ít chú ý đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế, không đề cao sức sáng tạo của nghệ nhân. Sản phẩm làm ra chủ yếu xuất sang thị trường Đông Âu và Liên Xô (cũ). Quá trình phát triển của làng nghề gặp nhiều khó khăn, hoạt động sản xuất của các làng nghề giảm sút.

Từ năm 1986 đến nay, dưới tác động của công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, làng nghề được chú trọng và phát triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, lần đầu tiên các tiêu chí công nhận làng nghề được xác định rõ. Danh mục làng nghề cũng được mở rộng.

Việc triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới từ năm 2010 đến nay, đã tạo điều kiện phát triển làng nghề với nhiều chính sách hỗ trợ. Làng nghề đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, kĩ thuật trong quá trình sản xuất. Các làng nghề bị mai một được bảo tồn, phục hồi. Nhiều làng nghề mới ra đời, đặc biệt là các nghề liên quan đến nông nghiệp, nông thôn như: chế biến nông sản, cơ khí nhỏ. Ngoài sản xuất, làng nghề còn phát triển các mô hình du lịch cộng đồng. Cảnh quan, môi trườnglàng nghề, công tác đào tạo nghề được chú trọng. Làng nghề phát triển mạnh mẽ theo hướng bền vững.


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

>> Xem thêm

Group 2K8 ôn Thi ĐGNL & ĐGTD Miễn Phí