- Là thể thơ làm theo những nguyên tắc thi luật chặt chẽ được đặt ra từ thời Đường (Trung Quốc)
- Mỗi bài có tám câu, mỗi câu có bảy chữ.
- Thi luật của thơ thất ngôn bát cú thể hiện qua bố cục, luật, niêm, vần, đối.
- Luật thơ là cách sắp đặt tiếng bằng, tiếng trắc trong các câu của một bài thơ.
- Thường được tóm tắt bằng câu: “nhất – tam – ngũ bất luận, nhị – tứ – lục phân minh”, tức là:
+ Các tiếng (âm tiết) thứ nhất, thứ ba, thứ năm trong câu không cần sắp xếp theo đúng luật bằng trắc
+ Các tiếng thứ hai, thứ tư, thứ sáu trong câu cần tuân theo luật bằng/ trắc rõ ràng.
- Nếu tiếng thứ hai của câu một là tiếng thanh bằng (thanh ngang hoặc thanh huyền) thì bài thơ làm theo luật bằng.
Ví dụ:
tiếng “thu” trong câu 1 – bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo cho biết bài thơ bát cú này làm theo luật bằng.
- Nếu tiếng thứ hai của câu một là tiếng thanh trắc (các thanh sắc, hỏi, ngã, nặng) thì bài thơ làm theo luật trắc.
Ví dụ:
tiếng “dạ” trong câu 1 – bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh: Kim dạ nguyên tiêng nguyệt chính viên cho biết bài thơ tứ tuyệt này làm theo luật trắc.
Thơ thất ngôn bát cú luật Đường quy định niêm luật như sau:
- Câu 1 niêm với câu 8
- Câu 2 niêm với câu 3
- Câu 4 niêm với câu 5
- Câu 6 niêm với câu 7
Thơ thất ngôn bát cú luật Đường quy định câu thứ ba đối với câu thứ tư, câu thứ năm đối với câu thứ sáu.
- Bạch Đằng hải khẩu
- Độc Tiểu Thanh ký
- Qua Đèo Ngang
- Thăng Lòng thành hoài cổ
….
Các bài khác cùng chuyên mục