Chú ý luận điểm được nêu và cách lập luận để làm sáng tỏ luận điểm
Vận dụng tri thức Ngữ văn và khả năng phân tích vấn đề
Cách 1
- Cách triển khai lập luận của tác giả khá đặc biệt. Bắt đầu, ông đã không nói về cái có, mà nói về cái không của vốn văn hóa dân tộc. Có thể dễ dàng đếm được trong bài có đến trên vài chục lần từ “không” lặp lại – từ không với hàm nghĩa chỉ ra những cái mà dân tộc ta không có.
- Bên cạnh từ “không” các cụm từ và từ như chưa bao giờ, ít cũng chở theo một nội dung tương tự
- Cái gây ấn tượng toát lên từ cách nhìn trực diện về vấn đề hơn là cách tung hứng ngôn từ. Vào thời điểm tiểu luận của Trấn Đình Hượu ra đời, người ta vốn đã quen nghe những lời ca tụng về dân tộc mình (“Càng nhìn ta, lại càng say” – Tố Hữu), bởi vậy, khi giáp mặt với một cách đặt vấn đẽ khác, một cảm hứng nghiên cứu khác, nhiều người dễ có cảm tưởng rằng tác giả đã “nói ngược” hay đã cực đoan trong các nhận định. Kì thực, nếu nắm được mạch nghiên cứu lịch sử tư tưởng của Trần Đình Hượu, đồng thời chấp nhận nét đặc thù của lối văn “phát biểu ý kiến”, ít có trích dẫn cũng như ít đưa dẫn chứng (ở cấp độ cụ thể, chi tiết), lại chủ yếu hướng vào giới chuyên môn vốn am hiểu sâu sắc các vấn đề hữu quan, ta sẽ dễ dàng chia sẻ, tán đồng với tác giả về hầu hết những luận điểm then chốt mà ông nêu lên.
Cách 2- Luận điểm được nêu ở đầu đoạn văn.
- Cách lập luận logic và chặt chẽ
Cách 3Điểm độc đáo trong cách triển khai lập luận của tác giả Trấn Đình Hượu trong bài tiểu luận "Về vốn văn hóa dân tộc ta" thể hiện ở việc ông sử dụng phương pháp phủ định để làm nổi bật những hạn chế, thiếu hụt của vốn văn hóa dân tộc. Thay vì tập trung vào những thành tựu đã đạt được, tác giả lại nhấn mạnh vào những "cái không", những gì dân tộc ta chưa có, còn thiếu.
Cách sử dụng từ ngữ cũng góp phần tạo nên sự độc đáo trong lập luận của tác giả. Ông lặp đi lặp lại từ "không", kết hợp với các cụm từ như "chưa bao giờ", "ít", để nhấn mạnh những hạn chế của văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên, cách tiếp cận này không phải là "nói ngược" hay "cực đoan" như một số người nhận định. Trên thực tế, tác giả đã có sự nghiên cứu sâu sắc về lịch sử tư tưởng và sử dụng lối văn "phát biểu ý kiến", ít trích dẫn, ít dẫn chứng, hướng đến đối tượng độc giả là những người am hiểu về văn hóa.
Các bài tập cùng chuyên đề
Trần Đình Hượu sinh ra tại:
Trần Đình Hượu tham gia thanh niên cứu quốc và Uỷ ban Khởi nghĩa năm bao nhiêu?
Năm 1959 – 1963, Trần Đình Hượu là nghiên cứu sinh ở trường đại học nào?
Năm 1963 – 1993, Trần Đình Hượu giảng dạy môn học nào ở trường Đại học tổng hợp Hà Nội?
Công trình nào dưới đây không phải là nghiên cứu của Trần Đình Hượu?
Năm 2000, Trần Đình Hượu vinh dự được nhận giải thưởng:
Cha của Trần Đình Hượu làm nghề gì?
Đoạn trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc được trích từ bài tiểu luận nào của Trần Đình Hượu?
Hãy chia sẻ hiểu biết của bạn về một số di tích văn hóa tiêu biểu của nước ta. Theo bạn, đặc điểm nổi bật ở những di tích ấy là gì?
Trong xu thế hội nhập hiện nay, vì sao người Việt Nam cần có hiểu biết về văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Cách nêu vấn đề nghị luận.
Cách nói có tính khẳng định của tác giả về các nội dung được bàn luận
Chú ý thái độ của tác giả khi bàn về văn hóa Việt Nam
Ở văn bản này, tác giả đã nêu vấn đề nghị luận? Chỉ ra mối liên hệ giữa vấn đề đó với nhan đề của văn bản.
Đặc điểm của văn hóa Việt Nam được tác giả khái quát bằng những luận điểm nào? Tác giả căn cứ vào đâu để khái quát như vậy?
“Giữa các dân tộc , chúng ta không thể tự hào là nên văn hóa của ta đồ sộ , có những cống hiến lớn lao cho nhân loại , hay có những đặc sắc nổi bật.” – luận điểm này đã được tác giả chứng minh như thế nào ? Lập luận của tác giả có sức thuyết phục không? Vì sao?
Khi nghiên cứu về văn hóa Việt Nam , tác giả đã bộc lộ thái độ gì? Bạn suy nghĩ như thế nào về thái độ nghiên cứu đó?
Nêu và phân tích một số thao tác nghị luận được tác giả sử dụng nhằm tăng tính thuyết phục cho văn bản.
Theo bạn, trong bài viết, kết luận nào về văn hóa Việt Nam là quan trọng nhất? Kết luận đó gợi cho bạn những suy nghĩ gì?
Từ câu chủ đề “Trong quá trình hiện đại hóa đất nước, việc tìm hiểu truyền thống văn hóa dân tộc là rất cần thiết’, hãy viết tiếp để hoàn thành đoạn văn diễn dịch (khoảng 150 chữ)
Nội dung chính của đoạn trích sau:
“Trong lúc chờ đợi kết luận khoa học của các ngành chuyên môn, chúng tôi xin đưa ra một số nhận xét về vài ba mặt của cái vốn văn hóa dân tộc; không phải cái hình thành vào thời kì định hình mà là cái ổn định dần, tồn tại cho đến trước thời cận – hiện đại. Chúng tôi không nghĩ đó là đặc sắc văn hóa dân tộc nhưng chắc chắn có liên quan gần gũi với nó.
Nội dung chính của đoạn trích sau:
“Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nền văn hóa của ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những đặc sắc nổi bật. Ở một số dân tộc hoặc là một tôn giáo, hoặc là một trường phái triết học, một ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội họa,…phát triển rất cao, ảnh hưởng phổ biến và lâu dài đến toàn bộ văn hóa, thành đặc sắc văn hóa của dân tộc đó, thành thiên hướng văn hóa của dân tộc. Ở ta, thần thoại không phong phú – hay là có nhưng một thời gian nào đó đã mất hứng thú lưu truyền? [...] Đạo giáo hình như không có nhiều ảnh hưởng trong văn hóa nhưng tư tưởng Lão – Trang thì lại ảnh hưởng nhiều đến lớp trí thức cao cấp, để lại dấu vết khá rõ trong văn học.”
Nội dung chính của đoạn trích sau:
“Con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hóa không chỉ trông cậy vào sự tạo tác của chính dân tộc đó mà còn trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh, khả năng đồng hóa những giá trị văn hóa bên ngoài. Về mặt đó, lịch sử chứng minh là dân tộc Việt Nam có bản lĩnh”
Đáp án nào không phải giá trị nghệ thuật của đoạn trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc?
Qua đoạn trích Nhìn về vốn văn hóa dân tộc, tác giả bày tỏ quan điểm:
Chỉ ra câu chủ đề của đoạn văn Nhìn về vốn văn hóa dân tộc, từ đó cho biết đoạn văn được tổ chức theo kiểu nào.
Ở đoạn văn này, tác giả chủ yếu dùng lí lẽ hay dẫn chứng? Chỉ ra mối liên hệ giữa lí lẽ và dẫn chứng được thể hiện ở đây.
Trong văn bản Nhìn về vốn văn hóa dân tộc, tác giả có thái độ như thế nào khi bàn luận về vấn đề?
Trong đoạn văn Nhìn về vốn văn hóa dân tộc, tác giả nêu ý kiến: “Hầu như người nào cũng có thể, cũng tròn có dịp làm dăm ba câu thơ. Nhưng số nhà thơ để lại nhiều tác phẩm thì không có, Xã hội có trọng văn chương, nhưng [...] bản thân các nhà thơ cũng không ai nghĩ cuộc đời, sự nghiệp của mình là ở thơ ca. Bạn suy nghĩ như thế nào về ý kiến này?
Khi nêu quan điểm của mình về văn hoá Việt Nam, tác giả nhắm tới mục đích gì?