Phong cách nghệ thuật “thường được hiểu theo hai góc nhìn sau đây:
- Phong cách là sự độc đáo về tư tưởng cũng như về nghệ thuật thể hiện thành những phẩm chất thẩm mĩ trong sáng tác của những nhà văn ưu tú, có tài năng điêu luyện.
- Phong cách là hệ thống những đặc điểm về mặt hình thức, bao gồm các thủ pháp nghệ thuật, các phương tiện diễn đạt, tạo nên tính độc đáo của một hiện tượng văn học và khu biệt hiện tượng này với hiện tượng khác.".
Có thể nói, phong cách là những nét độc đáo cả về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật được thể hiện thống nhất, tương đối ổn định ở một hiện tượng văn học (tác phẩm, tác giả, trào lưu, ... ). Như vậy, không phải một hiện tượng văn học nào cũng có phong cách. Có thể nói đến phong cách nhà văn qua một tác phẩm như phong cách của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, phong cách của Hồ Chí Minh trong Nhật kí trong từ; hoặc phong cách nghệ thuật của một tác giả như phong cách Nam Cao, Nguyễn Tuân, Tố Hữu, Nguyễn Bính, ... Ngoài ra, phong cách còn để chỉ tính độc đáo, thống nhất của một trào lưu hay dòng văn học (phong cách cổ điển, phong cách lãng mạn, ... ) hoặc phong cách một thời đại (phong cách thời Phục hưng(1), phong cách Ba-rốc(2), ... ).
Những đặc điểm cơ bản của phong cách nghệ thuật văn học trung đại Việt Nam:
- Tính quy phạm: Về tư duy nghệ thuật, thường nghĩ theo kiểu mẫu nghệ thuật có sẵn của người đi trước; về quan điểm văn học, coi trọng mục đích giáo huấn “thi dĩ ngôn chí” (thơ để nói chí), “văn dĩ tải đạo” (văn để chở đạo); về thể loại, có những quy định chặt chẽ về chức năng, kết cấu, lời văn; về ngữ liệu, hay sử dụng những điển cố, thi văn liệu của người đi trước; về bút pháp, thiên về ước lệ, tượng trưng.
- Hướng về cái cao cả, trang nhã: Các nhà văn trung đại thường hướng về cái đẹp trong quá khứ (thời Nghiêu, Thuấn), cái đẹp trong thiên nhiên, hướng tới những đề tài, chủ đề cao cả, lớn lao: tấm lòng trung quân ái quốc (trung với vua là yêu nước và ngược lại, yêu nước là phải trung với vua), lí tưởng, phẩm chất của kẻ sĩ quân tử, ...; hình tượng nghệ thuật hay hướng tới sự kì vĩ, vẻ trang nhã, mĩ lệ; ngôn ngữ thường trau chuốt, hoa mĩ, khi nói về cái cao cả, lớn lao, tao nhã hay dùng chữ Hán, nói về cái đời thường, bình dị hay dùng chữ Nôm.
- Hướng tới sự hài hoà, cân xứng: xuất hiện những cấu trúc song hành (lời văn biền ngẫu), cấu trúc cân xứng (nghệ thuật tứ bình như long, li, quy, phượng; tùng, cúc, trúc, mai; xuân, hạ, thu, đông, ...; nghệ thuật đối trong thơ Đường luật, ... ).
- Hướng về cái chung: Đề cao trách nhiệm đối với cộng đồng, cái riêng thường nhập vào cái chung, không đề cao cá tính, ít xuất hiện phong cách tác giả, ...
Những tác giả tài năng, có cá tính thì trong sáng tác, bên cạnh phong cách chung của thời đại còn có những sáng tạo mang phong cách riêng.