Nghị luận xã hội là kiểu văn bản trong đó tác giả đưa r ý kiến của mình về một vấn đề xã hội và dùng các lí lẽ, bằng chứng để luận bàn, làm sáng tỏ và thuyết phục người đọc về ý kiến đã nêu lên.
Phân loại |
Đặc điểm |
|
Nghị luận xã hội trung đại |
- Được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, thể hiện bằng các thể loại như chiếu, cáo, hịch… - Thường được viết bằng văn biền ngẫu, các câu đối nhau về âm, về từ loại và về nghĩa, tạo nên nhịp điệu và ý nghĩa của bài văn. - Từ ngữ trang trọng, uyên bác, giàu tính ước lệ, tượng trưng, có sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố lập luận và cảm xúc của người viết |
|
Chiếu, cáo |
Được vua, chúa dùng để ban bố trước dân chúng về những công việc và sự kiện có tính chất quốc gia. |
|
Hịch |
Được vua, chúa, tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh các phong trào viết ra để kêu gọi, thuyết phục dân chúng và những người dưới quyền cùng thực hiện những sự việc trọng đại. |
|
Ví dụ: Câu 4 chữ đối với câu 4 chữ “ruột đau như cắt,// nước mắt đầm đìa”; câu 6 chữ đối với câu 6 chữ “sinh ra phải thời loạn lạc,// lớn lên gặp buổi gian nan” (Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn) hoặc câu 4/6 và 4/6 (“Đô đốc Thôi Tự/ lê gối dâng tờ tạ tội// Thượng thư Hoàng Phúc/ trói tay để tự xin hàng” (Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi) |
||
Nghị luận xã hội hiện đại |
- Được viết bằng văn xuôi Quốc ngữ, câu văn tự do. - Bên cạnh những vấn đề có tính chất quốc gia, quốc tế, các văn bản nghị luận xã hội hiện đại còn bàn bạc nhiều vấn đề của cuộc sống đời thường. - Tác giả có thể là những nhân vật có uy tín, có vị trí trong xã hội hoặc là một người bình thường. |