Đề bài

Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ cùng phong cách hoặc khác phong cách sáng tác mà bạn yêu thích

Phương pháp giải

Dựa vào kiến thức và kĩ năng đã học để thực hiện bài văn

Lời giải của GV Loigiaihay.com

Tình yêu là đề tài muôn thuở của văn chương. Tình yêu là một loại tình cảm đặc biệt trong tâm hồn mỗi người. Sự sống của tình yêu là nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái và nhiều cung bậc. Những sắc thái và cung bậc ấy được thể hiện rất đẹp qua hai trích đoạn trong Tương tư của Nguyễn Bính và Việt Bắc của Tố Hữu. Nguyễn Bính thì bày tỏ nỗi nhớ nhung trong tình yêu đôi lứa, Tố Hữu thì bày tỏ nỗi niềm da diết khôn nguôi với quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình.

Cũng như các nhà thơ lãng mạn cùng thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu, nhưng tình yêu trong thơ Nguyễn Bính có một lối nói riêng. “Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính không nổi lên mà tan hòa vào không gian đồng quê bằng biện pháp ẩn dụ nhân hoá như trong ca dao:

 

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Gió mưa là bệnh của giời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

Tâm trạng tương tư của chàng trai quê được bộc lộ trong bài thơ “Tương tư" thành những nhớ mong da diết, trĩu nặng. Nỗi niềm ấy được xem như một quy luật tự nhiên không thể cưỡng lại, một thứ “tâm bệnh” khó chữa của người đang yêu. Niềm mong nhớ gắn liền với khung cảnh làng quê khiến cho cả không gian như cũng nhuốm đầy nỗi tương tư.

Từ nỗi nhớ người yêu luôn thường trực, cháy bỏng trong lòng, cái tôi trữ tình suy ngẫm, liên tưởng, nhận diện nỗi nhớ. Người ta thường nói nỗi nhớ là sự sống của tình yêu, còn Nguyễn Bính thì quy kết thành bệnh. Cái bệnh kinh niên sinh ra từ tâm lí của con người, không ai nói mình yêu mà không nhớ, nhớ mà không yêu. Yêu là nhớ, đó là quy luật. Quy luật của lòng người cũng như quy luật của tự nhiên: “Gió mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Trời đất không thể không có gió mưa, sống không thể “không nhớ, không thương một kẻ nào”. Một sự thừa nhận thành thật, ý vị khẳng định tính tất yếu của thiên nhiên cũng như của tình yêu – lòng người.

Về nghệ thuật, nhà thơ sử dụng các hình ảnh sóng đôi: Đông - Đoài, gió - mưa, tôi - nàng… tô đậm khát vọng lứa đôi. Thể thơ lục bát cùng với các hình thức diễn đạt, cách dùng địa danh quen thuộc của ca dao dân ca khiến đoạn thơ có vẻ đẹp dung dị, duyên dáng dễ đi vào lòng người. Chất chân quê của hồn thơ Nguyễn Bính được biểu hiện rất tài tình, khiến đọc lên người ta cứ ngỡ ca dao chứ không phải thơ hiện đại, và mỗi người đều mượn nó để nói hộ lòng mình. Đó chẳng phải là những câu thơ bất hủ đó sao!

Thể thơ lục bát thấm đượm phong vị ca dao. Chất liệu ngôn từ trong bài “Tương tư" rất chân quê với những địa danh, thành ngữ gần gũi, cách tổ chức lời thơ độc đáo, sử dụng nhuần nhuyễn nhiều biện pháp tu từ: hoán dụ, nhân hoá, đối sánh, tăng tiến, khoa trương.

Như trên đã nói, tình yêu trong mỗi con người là một xúc cảm tuyệt vời, nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái, nhiều cung bậc. Nếu Nguyễn Bính giãi bày nỗi nhớ trong tình yêu đôi lứa thì Tố Hữu trong đoạn thơ này lại diễn tả niềm da diết khôn nguôi với Việt Bắc - quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đỉnh núi nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”

Suốt mười lăm năm “Từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh” cho đến lúc cuộc kháng Pháp vĩ đại thắng lợi, cán bộ, chiến sĩ cách mạng đã gắn bó cùng đồng bào Việt Bắc đánh giặc “Bát cơm chấm muối, mối thù nặng vai… Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng’’, nay chiến thắng trở về xuôi làm sao có thể quên những kỉ niệm sâu nặng như thế!

Tố Hữu đã diễn tả nỗi niềm thương nhớ day dứt, khôn nguôi của người đi kẻ ở cũng thường trực, da diết như trong nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa vậy. Nhưng nỗi nhớ không dành riêng cho một đối tượng mà nỗi nhớ dành cho tất cả đồng bào và thiên nhiên Việt Bắc. Nỗi nhớ giăng mắc khắp không gian, lung linh bao kỉ niệm: Nhớ những đêm trăng treo trên đầu núi, những buổi chiều nắng toả vàng rộng khắp trên nương, những bản làng ảo mờ trong sương khói, đặc biệt là bóng dáng của “người thương đi về”quây quần bên bếp lửa mỗi đêm đông, cảnh – người quyện hoà thanh bình, yên ả, ấm áp.

“Việt Bắc" của Tố Hữu đã thể hiện nỗi nhớ đằm thắm, sâu nặng của người cán bộ kháng chiến dành cho Việt Bắc, trong đó chan hòa tình nghĩa riêng chung. Hiện lên trong nỗi nhớ ấy là hình ảnh chiến khu Việt Bắc thân thương, với cảnh vật bình dị mà thơ mộng, với nhịp sống đơn sơ mà êm đềm, đầm ấm. Thể thơ lục bát kết hợp nhuần nhuyễn chất cổ điển và chất dân gian, nhịp điệu linh hoạt uyển chuyển, âm hưởng tha thiết, ngọt ngào. Hình ảnh thơ giản dị mà gợi cảm, cách ví von quen thuộc mà vẫn độc đáo, cách tổ chức lời thơ với phép tiểu đối, phép điệp cân xứng, khéo léo đã khiến cho độc giả vô cùng ấn tượng bởi những giá trị mà bài thơ mang lại.

Tuy ra đời ở hai thời điểm khác nhau nhưng hai bài thơ đều đều thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng, sử dụng thể thơ lục bát điêu luyện. 

Song, bên cạnh đó, dù viết cùng về một đề tài nhưng giữa hai bài thơ vẫn có những điểm khác biệt. Bài thơ “Tương tư” là nỗi nhớ của tình yêu lứa đôi, gắn với không gian làng quê Bắc Bộ, vừa bày tỏ vừa “lí sự” về tương tư, với cách đối sánh táo bạo còn nỗi nhớ được thể hiện trong bài “Việt Bắc” là nỗi nhớ của tình cảm cách mạng, gắn với không gian núi rừng Việt Bắc, nghiêng hẳn về bộc bạch tâm tình, với cách ví von duyên dáng. 

Thơ là tiếng tơ lòng, mỗi khi rung động trước thiên nhiên, đất nước, con người, tiếng tơ ấy lại cất lên tiếng hát của tâm hồn làm xúc động biết bao người đọc. Cảm ơn các nhà thơ đã cho ta biết yêu, biết rung động trước cái đẹp của cuộc đời qua những trang thơ.

Các bài tập cùng chuyên đề

Bài 1 :

Trong bài viết, tác giả dựa trên những cơ sở nào khi chọn hai bài thơ để so sánh, đánh giá?

Xem lời giải >>
Bài 2 :

Bài viết triển khai các nội dung so sánh, đánh giá như thế nào? Bạn có nhận xét gì về hiệu quả của cách triển khai đó?

Xem lời giải >>
Bài 3 :

Theo bạn, có thể có những cách trình bày nào khác về các nội dung so sánh, đánh giá trong bài viết?

Xem lời giải >>
Bài 4 :

Chọn đề tài: So sánh, đánh giá hình tượng người lính trong Đồng chí (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)

Xem lời giải >>
Bài 5 :

Hãy so sánh và nêu nhận xét, đánh giá của em về hai đoạn thơ sau: 

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi... 

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
Một vết bùn khô trên mặt đá
Không có ai chia tay
Cũng nhớ một tiếng còi tàu.

Mẹ tôi thức khuya dậy sớm
Năm nay ngoài năm mươi tuổi
Chồng chết đã mười mấy năm
Thuở tôi mới đọc được i tờ
Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần
Nước sông gạo chợ

(Bài thơ của một người yêu nước mình – Trần Vàng Sao)

Xem lời giải >>
Bài 6 :

Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
"...] Có người còn cho tình yêu mới chính là mùa xuân. Xuân Diệu đã hơn một lần viết rằng:
Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi xuân đã đến lâu rồi
Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.
(Nguyên đản)
Không mạnh mẽ và dạt dào như Xuân Diệu, nhưng thơ tỉnh Nguyễn Binh có cái sâu lắng, dịu dàng, bát ngát của làng quê. Nguyễn Bính đã có lần ao ước được kết duyên với người bạn thuở thiếu thời trong cảnh vườn xuân trắng xoá hoa cam rụng:

Như chuyện Tương Như và Trác Thị
Đưa nhau về ở đất Lâm Cùng
Vườn xuân trắng xoả hoa cam rụng
Tôi với em Nhi kết vợ chồng.
(Rượn và hoa)
Nhưng ước ao vẫn là ước ao. Chuyện tình duyên của Nguyễn Bính đều là chuyện không thành cả. Nên mùa xuân của thơ ông cũng là mùa “tính sổ" sự lỡ làng của tỉnh duyên. Trong Mưa xuân, tác giả kể chuyện hẹn hò của đôi trai gái đêm xuân nghe hát chèo. Nhưng chàng trai lỡ hẹn. Tiếng trống chèo càng náo nức bao nhiêu thì nỗi buồn bâng khuâng của cô gái càng thấm thía bấy nhiêu:
Chờ mãi anh sang anh chẳng sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Để cả mùa xuân cũng nhớ nhàng.
(Mưa xuân)
Cải giọng có chút hờn trách nhưng đầy thương cảm. Đó là giọng trách yêu, trách mà không nở giận. Đấy cũng là cái dôn hậu của tâm hồn người phụ nữ Việt Nam.".
(Lê Tiến Dũng, Những bài thơ xuân của Nguyễn Binh, in trong Nguyễn Bình – Nhà thơ chân quê, NXB Văn hoá – thông tin, ILà Nội, 2000)
- Nội dung và phạm vi so sánh trong đoạn văn trên là gì?

- Chỉ ra những câu văn nêu nhận xét, đánh giá của người viết.

Xem lời giải >>
Bài 7 :

Đọc văn bản và đưa ra lí giải phù hợp theo tri thức về kiểu bài.

Xem lời giải >>
Bài 8 :

Nhận xét về cách sắp xếp các luận điểm ở phần thân bài.

Xem lời giải >>
Bài 9 :

Trong từng luận điểm, sự kết hợp giữa lí lẽ và bằng chứng được thể hiện như thế nào?

Xem lời giải >>
Bài 10 :

Từ ngữ liệu trên, bạn rút ra được những lưu ý gì khi viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ?

Xem lời giải >>
Bài 11 :

Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về một nét tương đồng giữa hình tượng người lính Tây Tiến và hình tượng Lor-ca – người nghệ sĩ đấu tranh cho tự do.

Xem lời giải >>
Bài 12 :

Lập dàn ý cho một trong hai đề bài sau:

Đề 1. Tiếng nói tri âm qua hai bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du) và Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo).

Đề 2. Trong bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh) và Biển (Xuân Diệu), hai nhà thơ đều muốn được hoá thân thành sóng, nhưng mỗi con sóng lại có những nét đặc sắc riêng. Hãy so sánh, đánh giá hình tượng sóng trong hai bài thơ trên.

Xem lời giải >>
Bài 13 :

Lập bảng đối chiếu yêu cầu nội dung các phần trong bố cục của bài viết so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ và bài viết so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện/ kí hoặc kịch. Có thể sử dụng mẫu bảng sau (làm vào vở):

Các phẩn

(1)

So sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (2)

So sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện/ kí hoặc kịch (3)

Mở bài

   

Thân bài

   

Kết bài

   

 

Xem lời giải >>
Bài 14 :

Viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích nghệ thuật sáng tạo hình ảnh trong văn bản Thôi đừng trách mùa thu

THÔI ĐỪNG TRÁCH MÙA THU…

(Trần Nhuận Minh)

Thôi đừng trách mùa thu nhiều mây trắng
Sân trường hẹp lại, biển lùi xa…
Cây phượng gù quên nắng mưa dầu dãi
Nở như thời thơ ấu
những chùm hoa…


Thôi đừng nghe tiếng ve kêu cháy ruột
Để người lính bình yên nằm dưới cánh
rừng già
Phút chạm lửa, chợt nhớ tà áo mỏng
Bay qua cổng trường như một ánh sương sa


Thôi đừng nhớ gió heo may xao xác
Thổi nao lòng trong sách giáo khoa xưa
Thầy cô ơi, xin người đừng già vội
Nụ cười hiền, mái tóc chớm màu mưa…


Thôi đừng xa mái trường như bóng mẹ
Lặng lẽ thương ta, dạy ta lớn thành người
Chao ôi nhớ, tấm bảng xanh bát ngát
Mở đường bay cho những tuổi đôi mươi…

Xem lời giải >>