Dựa vào thông tin dưới đây để trả lời các câu hỏi:
Biến đổi khí hậu đang được dự báo sẽ làm gia tăng hạn hán, qua đó làm trầm trọng thêm tình trạng xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Vậy sự kết hợp giữa hai yếu tố này sẽ tác động trực tiếp như thế nào đến sự tồn tại của nông dân ĐBSCL, những người chủ yếu có sinh kế phụ thuộc vào việc trồng lúa?
M. A. van Aalst và các cộng sự ở Trường Kinh doanh và Kinh tế, Đại học Vrije Amsterdam, đã đặt câu hỏi này vào cả vùng ĐBSCL và xem xét mức độ tổn thương ở các mức quy mô khác nhau, cả cấp quận, cấp xã và cấp hộ gia đình. Giải thích vì sao lại chọn ĐBSCL, các nhà nghiên cứu cho rằng đây là điểm nóng về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và môi trường. Trong cả thập kỷ qua, vùng này đã trải qua những thay đổi môi trường ở tốc độ nhanh và chậm, như nước biển dâng, lũ lụt, xâm nhập mặn và hạn hán trong khi nguồn sống của 75% cư dân phụ thuộc vào nông nghiệp. Sản phẩm nông nghiệp chiếm vị thế chủ đạo của ĐBSCL là lúa, vốn dễ bị ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Họ tập trung vào giai đoạn 2015-2016, khi cả đồng bằng phải gánh chịu đợt hạn hán khốc liệt nhất trong lịch sử, đồng thời còn phải trong cảnh dòng chảy từ thượng nguồn xuống thấp hơn 65 đến 70% so với trung bình hằng năm.
Sử dụng các mô hình tính toán, họ phát hiện ra mức độ dễ bị tổn thương ở cấp độ huyện và xã có những điểm khác biệt. Ở cấp huyện, mặc dù có mối liên hệ giữa nghèo đói và thất thu vụ mùa nhưng không có chỉ dấu trực tiếp giữa sự phơi nhiễm xâm nhập mặn với nghèo đói, mặc dù thông thường xâm nhập mặn sẽ góp phần làm giảm năng suất thu hoạch với tỉ lệ xấp xỉ 21%.
Ở cấp xã, mối liên hệ này thể hiện tương đối rõ nét. Các xã nghèo hơn và bị xâm nhập mặn nhiều hơn đều phải hứng chịu cảnh bị mất mát mùa vụ ở mức cao trong cùng năm. Do đó, các cộng đồng nghèo sẽ có mức độ tổn thương do tác động trực tiếp của môi trường cao hơn, điều vẫn còn chưa thể hiện rõ ở cấp huyện.
Ở cấp hộ gia đình, các hộ sống trong khu vực nghèo sẽ phải đối mặt với khả năng mất mùa cao hơn. quan hệ này chứng tỏ hiệu ứng này thậm chí còn mạnh hơn ở những nơi chịu xâm nhập mặn cao, chỉ dấu là những hộ sống ở khu vực thịnh vượng hơn đều có năng lực thích ứng tốt hơn. Các mô hình cũng cho thấy mức độ rủi ro cao hơn ở cấp hộ gia đình có liên quan đáng kể với mức độ giáo dục thấp hơn, tài sản thấp hơn và quy mô canh tác nhỏ hơn.
(Theo Anh Vũ, Tính dễ bị tổn thương và khó phục hồi của nông dân ĐBSCL trong hạn hán)
Dựa vào thông tin dưới đây để trả lời các câu hỏi:
Biến đổi khí hậu đang được dự báo sẽ làm gia tăng hạn hán, qua đó làm trầm trọng thêm tình trạng xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Vậy sự kết hợp giữa hai yếu tố này sẽ tác động trực tiếp như thế nào đến sự tồn tại của nông dân ĐBSCL, những người chủ yếu có sinh kế phụ thuộc vào việc trồng lúa?
M. A. van Aalst và các cộng sự ở Trường Kinh doanh và Kinh tế, Đại học Vrije Amsterdam, đã đặt câu hỏi này vào cả vùng ĐBSCL và xem xét mức độ tổn thương ở các mức quy mô khác nhau, cả cấp quận, cấp xã và cấp hộ gia đình. Giải thích vì sao lại chọn ĐBSCL, các nhà nghiên cứu cho rằng đây là điểm nóng về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và môi trường. Trong cả thập kỷ qua, vùng này đã trải qua những thay đổi môi trường ở tốc độ nhanh và chậm, như nước biển dâng, lũ lụt, xâm nhập mặn và hạn hán trong khi nguồn sống của 75% cư dân phụ thuộc vào nông nghiệp. Sản phẩm nông nghiệp chiếm vị thế chủ đạo của ĐBSCL là lúa, vốn dễ bị ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Họ tập trung vào giai đoạn 2015-2016, khi cả đồng bằng phải gánh chịu đợt hạn hán khốc liệt nhất trong lịch sử, đồng thời còn phải trong cảnh dòng chảy từ thượng nguồn xuống thấp hơn 65 đến 70% so với trung bình hằng năm.
Sử dụng các mô hình tính toán, họ phát hiện ra mức độ dễ bị tổn thương ở cấp độ huyện và xã có những điểm khác biệt. Ở cấp huyện, mặc dù có mối liên hệ giữa nghèo đói và thất thu vụ mùa nhưng không có chỉ dấu trực tiếp giữa sự phơi nhiễm xâm nhập mặn với nghèo đói, mặc dù thông thường xâm nhập mặn sẽ góp phần làm giảm năng suất thu hoạch với tỉ lệ xấp xỉ 21%.
Ở cấp xã, mối liên hệ này thể hiện tương đối rõ nét. Các xã nghèo hơn và bị xâm nhập mặn nhiều hơn đều phải hứng chịu cảnh bị mất mát mùa vụ ở mức cao trong cùng năm. Do đó, các cộng đồng nghèo sẽ có mức độ tổn thương do tác động trực tiếp của môi trường cao hơn, điều vẫn còn chưa thể hiện rõ ở cấp huyện.
Ở cấp hộ gia đình, các hộ sống trong khu vực nghèo sẽ phải đối mặt với khả năng mất mùa cao hơn. quan hệ này chứng tỏ hiệu ứng này thậm chí còn mạnh hơn ở những nơi chịu xâm nhập mặn cao, chỉ dấu là những hộ sống ở khu vực thịnh vượng hơn đều có năng lực thích ứng tốt hơn. Các mô hình cũng cho thấy mức độ rủi ro cao hơn ở cấp hộ gia đình có liên quan đáng kể với mức độ giáo dục thấp hơn, tài sản thấp hơn và quy mô canh tác nhỏ hơn.
(Theo Anh Vũ, Tính dễ bị tổn thương và khó phục hồi của nông dân ĐBSCL trong hạn hán)
Bao nhiêu % cư dân ĐBSCL có nguồn sống phụ thuộc vào nông nghiệp?
Bao nhiêu % cư dân ĐBSCL có nguồn sống phụ thuộc vào nông nghiệp?
21%.
65-70%.
50%.
75%.
Đáp án: D
Xác định thông tin chi tiết từ đoạn văn về tỷ lệ cư dân phụ thuộc vào nông nghiệp.
Trong đoạn văn, có câu: “nguồn sống của 75% cư dân phụ thuộc vào nông nghiệp.” Thông tin này trực tiếp đề cập đến tỷ lệ người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có sinh kế chủ yếu từ nông nghiệp.
Vì sao nhóm nghiên cứu chọn ĐBSCL là địa phương để khảo sát biến đổi khí hậu?
Vì sao nhóm nghiên cứu chọn ĐBSCL là địa phương để khảo sát biến đổi khí hậu?
Vì ĐBSCL là một đồng bằng quan trọng của cả nước.
Vì ĐBSCL là điểm nóng về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và môi trường.
Vì ĐBSCL có mức độ tổn thương ở các mức quy mô khác nhau.
Vì ĐBSCL gánh chịu đợt hạn hán khốc liệt nhất trong giai đoạn 2015-2016.
Đáp án: B
Tìm lý do nhóm nghiên cứu chọn ĐBSCL làm khu vực khảo sát, dựa trên các thông tin liên quan đến biến đổi khí hậu và môi trường.
Đoạn văn nêu rõ: “ĐBSCL... là điểm nóng về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và môi trường.” Nhóm nghiên cứu đã chọn ĐBSCL vì đây là khu vực chịu tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, chẳng hạn như nước biển dâng, lũ lụt, xâm nhập mặn và hạn hán.
Những tác động của biến đổi khí hậu đến với môi trường sinh thái ĐBSCL là gì?
Những tác động của biến đổi khí hậu đến với môi trường sinh thái ĐBSCL là gì?
Nước biển dâng, lũ lụt, xâm nhập mặn và hạn hán.
Xói mòn, lũ lụt, hạn hán và hiệu ứng nhà kính.
Phơi nhiễm xâm nhập mặn và giảm đa dạng sinh học.
Xói mòn, hạn hán, nước biển dâng và xâm nhập mặn.
Đáp án: A
Xác định các tác động cụ thể của biến đổi khí hậu đối với ĐBSCL được đề cập trong đoạn văn.
Đoạn văn liệt kê các hiện tượng tự nhiên tác động đến ĐBSCL bao gồm: “nước biển dâng, lũ lụt, xâm nhập mặn và hạn hán.” Các hiện tượng này là hậu quả của biến đổi khí hậu và ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái của vùng.
“Ở cấp huyện, mặc dù có mối liên hệ giữa nghèo đói và thất thu vụ mùa nhưng không có chỉ dấu trực tiếp giữa sự phơi nhiễm xâm nhập mặn với nghèo đói, mặc dù thông thường xâm nhập mặn sẽ góp phần làm giảm năng suất thu hoạch với xấp xỉ 21%”.
Cụm từ “Ở cấp huyện” trong câu trên là thành phần gì của câu?
“Ở cấp huyện, mặc dù có mối liên hệ giữa nghèo đói và thất thu vụ mùa nhưng không có chỉ dấu trực tiếp giữa sự phơi nhiễm xâm nhập mặn với nghèo đói, mặc dù thông thường xâm nhập mặn sẽ góp phần làm giảm năng suất thu hoạch với xấp xỉ 21%”.
Cụm từ “Ở cấp huyện” trong câu trên là thành phần gì của câu?
Khởi ngữ.
Trạng ngữ.
Vị ngữ.
Chủ ngữ.
Đáp án: B
Xác định chức năng ngữ pháp của cụm từ "Ở cấp huyện" trong cấu trúc câu.
Cụm từ “Ở cấp huyện” có chức năng cung cấp nơi chốn.
Lý do “Ở cấp huyện” không phải Khởi ngữ vì khởi ngữ là thành phần nêu ra đề tài, chủ đề được đề cập đến trong câu, tuy nhiên "ở cấp huyện" chỉ cung cấp không gian, bối cảnh cho câu, không phải vấn đề được quan tâm (mà vấn đề được nói trong câu là không có chỉ dấu trực tiếp giữa sự phơi nhiễm xâm nhập mặn với nghèo đói, chứ ko phải nói về địa bàn nào).
Chủ đề chính của văn bản trên là gì?
Chủ đề chính của văn bản trên là gì?
Những biểu hiện của biến đổi khí hậu ở ĐBSCL.
Hậu quả của hiện tượng xâm nhập mặn ở ĐBSCL.
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến thiên nhiên ĐBSCL.
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến đời sống người dân ĐBSCL.
Đáp án: D
Xác định chủ đề chính của văn bản thông qua nội dung tổng quát.
Văn bản tập trung vào cách biến đổi khí hậu tác động đến đời sống của nông dân ĐBSCL, đặc biệt là những người trồng lúa. Các nghiên cứu được nhắc đến nhằm đánh giá mức độ dễ bị tổn thương của người dân trong bối cảnh hạn hán và xâm nhập mặn. Các nội dung này cho thấy trọng tâm của văn bản là tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống của cộng đồng dân cư ở ĐBSCL.
Các bài tập cùng chuyên đề
Nội dung của văn bản sau là gì?
“Cành chọc trời là con đầu
Tên gọi ông Thu Tha
Cành bung xung là con thứ hai
Tên gọi bà Thu Thiên
Hai ông bà nên đôi nên lửa
Truyền cho:
Con gà có cựa
Dây dưa biết leo
Tre pheo có gai, có ngọn
Con người biết nói.”
(Sử thi dân tộc Mường, Đẻ đất đẻ nước)
-
A.
Giải thích nguồn gốc trời và đất.
-
B.
Giải thích đặc điểm các loài.
-
C.
Giải thích nguồn gốc bản làng.
-
D.
Giải thích nguồn gốc phong tục.
Chi tiết “Ngọc Hoàng mới gạn lấy chất trong, tinh túy rồi nặn ra một giống vật khác công phu hơn” có nghĩa là gì?
“Đây nói chuyện Ngọc Hoàng, từ lúc mọi công việc kiến thiết vũ trụ đã xong mới bắt đầu nghĩ đến chuyện sáng tạo ra vạn vật. Không hiểu Ngọc Hoàng làm như thế nào nhưng chỉ nghe nói rằng ông ta trước hết dùng những chất cặn còn sót lại trong trời đất, nặn ra đủ mọi giống vật từ những con to lớn như voi, tê ngưu, cọp đến những vật bé tí như sâu, kiến, bọ, trùng, v.v... Sau đó, Ngọc Hoàng mới gạn lấy chất trong, tinh túy rồi nặn ra một giống vật khác công phu hơn. Đó là loài người. Và cũng vì thế mà người ta khôn hơn vạn vật.”
(Nguyễn Đổng Chi, Mười hai bà mẹ)
-
A.
Loài người là giống loài được sáng tạo một cách công phu từ chất trong, tinh túy.
-
B.
Loài người là giống loài được tạo ra sau cùng và đồng chất với mọi loài, mọi vật.
-
C.
Loài người là một hợp chất trong lành và tinh túy giống như mọi loài, mọi vật.
-
D.
Loài người là sự sáng tạo thông thái của Ngọc Hoàng từ những chất cặn còn sót lại.
Xác định thể thơ của văn bản
“Tuổi đà ngoại tám mươi già,
Thoắt thoắt xem bằng bóng ngựa qua.
Mai bạc lạnh quen nhiều tháng tuyết,
Cúc vàng thơm đổi mấy phen hoa.
Sang có phận, là ơn chúa,
Được làm người, bởi đức cha.
Am quán ngày nhàn, rồi mọi việc,
Dầu ai tự tại, mặc dầu ta.”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bạch Vân quốc ngữ thi)
-
A.
Thất ngôn xen lục ngôn.
-
B.
Thất ngôn xen ngũ ngôn.
-
C.
Thất ngôn tứ tuyệt.
-
D.
Lục ngôn bát cú.
Dòng nào sau đây không thể hiện đặc trưng hình thức nghệ thuật của văn bản?
“… Bà phu nhân nói:
[…] Những cuộc gặp gỡ hiếm lạ, đời nào mà không có: như đền Bạc hậu, như quán Cao đường, như thần Lạc phố lướt sóng, như nàng Giang Phi cởi ngọc, như Lộng Ngọc lấy Tiêu Sử, như Thái Loan gặp Văn Tiêu, như Lan Hương gặp Trương Thạc... Bao nhiêu những chuyện cũ còn sờ sờ đó, nếu thế này mà bị chê cười thì đã có những người trước ấy họ chịu đỡ tiếng cười cho mình.
Mọi người cùng phá lên cười rất vui vẻ. Rồi đó mặt trời gác núi, các khách khứa đều giải tán cả.”
(Nguyễn Dữ, Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên)
-
A.
Sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa.
-
B.
Dùng nhiều điển tích, điển cố.
-
C.
Tổ chức theo cấu trúc biền văn.
-
D.
Sử dụng biện pháp tu từ liệt kê.
Dòng nào sau đây không thể hiện cảm xúc và tư tưởng của văn bản?
“Ôi!
Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng anh hùng gặp thuở gian truân, Đất Gò Công cây cỏ ủ ê, cảm niềm thần tử mắc nơi họa hại.
Xưa còn làm tướng, dốc rạng dồi hai chữ bình Tây, Nay thác về thần, nên vưng hộ một câu phục thái. Hỡi ôi thương thay!”
(Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế Trương Định)
Chú thích:
Rạng dồi: làm sáng tỏ, làm rạng rỡ Vưng hộ: bảo bọc, giúp đỡ
Phục thái: trở lại thái bình
-
A.
Tiếc thương cho sự hy sinh vì nước vì dân của đấng anh hùng.
-
B.
Cảm thương trước tai họa mà đấng anh hùng mắc phải
-
C.
Tin vị anh hùng sống làm tướng đánh giặc, thác theo thần giúp đỡ nhân dân.
-
D.
Xót xa cho trời Bến Nghé, đất Gò Công hoang tàn trong cơn binh biến.
Người kể chuyện trong văn bản sử dụng điểm nhìn trần thuật nào?
“Đời bộ đội của tôi đã bước những bước đi đầu tiên trong các cánh rừng cằn cỗi vùng Bãi Nai. Ba tháng trời dãi gió dầm mưa trên thao trường đã giúp chúng tôi gột sạch mọi tàn tích của nếp sống thị thành và trụ vững bản thân mình vào đội ngũ. Chúng tôi tập đeo gạch hành quân, tập lăn lê trườn toài, tập nín thở bóp cò, tập bám trụ chiến hào, tập vọt tiến tấn công, tập đâm lê, tập quăng lựu đạn, tập nhồi bộc phá, tập tuân lệnh chỉ huy và tập bền bỉ chịu khổ.”
(Bảo Ninh, Đêm trừ tịch)
-
A.
Điểm nhìn của ngôi thứ nhất.
-
B.
Điểm nhìn của ngôi thứ ba toàn trị.
-
C.
Điểm nhìn của ngôi thứ ba hạn tri.
-
D.
Điểm nhìn của ngôi thứ hai.
Chủ thể trữ tình trong đoạn thơ là:
“Nhớ cát là nỗi nhớ của tôi
Nhắm mắt lại thấy một màu trắng xóa
Trơ trụi đen những ngôi nhà lợp cỏ
Gió cát bào tróc vỏ những hàng dương
Không tìm đâu lấy một con đường
Chỉ có cát phơi mình dưới nắng
Chỉ có cát nghiêng về phía sóng
Như tấm lòng tôi ngóng những thuyền xa”
(Xuân Quỳnh, Nhớ cát)
-
A.
nỗi nhớ của tôi.
-
B.
cát.
-
C.
tôi.
-
D.
tấm lòng tôi.
Dòng nào dưới đây chứa các biện pháp tu từ xuất hiện trong văn bản?
“Nước ở đâu mà tuôn mãi không thôi. Nước rung rào rào trên lá. Nước tràn trên mặt đất. Nước chảy theo những thân cây. Rừng ướt sũng, đất ướt sũng, và trời mãi cũng chẳng thấy khô hơn. Mới xế chiều mà rừng đã muốn tối om. Rừng như xị ra. Mặt trời vẫn còn đâu đó giữa đường chân trời. Nó đang thổi hồng một đám mây màu xám chì, giống như đống trấu ủ giữa sương mù đặc sệt.”
(Chu Lai, Nắng đồng bằng)
-
A.
Phép điệp, so sánh, phóng đại.
-
B.
Phép điệp, hoán dụ, so sánh.
-
C.
Phép điệp, nói giảm, nói tránh, so sánh.
-
D.
Phép điệp, so sánh, nhân hóa.
Đoạn đối thoại dưới đây cho thấy mục đích chính khiến ông Giuốc-đanh học âm nhạc là gì?
“Thấy nhạc: Thưa ngài, đáng lẽ ngài phải học âm nhạc, cũng như ngài đang học khiêu vũ. Đó là hai ngành nghệ thuật có liên quan chặt chẽ với nhau.
Thầy múa: Và nó mở mang trí não cho con người hiểu biết những cái đẹp.
Ông Giuốc-đanh: Thế những người sang trọng cũng có học âm nhạc chứ?
Thầy nhạc: Thưa ngài có chứ.
Ông Giuốc-đanh: Thế thì tôi sẽ học. Nhưng tôi không biết tôi có thể học vào thì giờ nào vì, ngoài thầy dạy kiếm thuật đến chỉ dẫn cho tôi, tôi lại còn mướn một thầy dạy triết lý, sáng hôm nay bắt đầu đây.”
(Mô-li-e, Trưởng giả học làm sang)
-
A.
Ông Giuốc-đanh muốn thể hiện niềm đam mê với âm nhạc.
-
B.
Ông Giuốc-đanh muốn mở mang hiểu biết về cái đẹp.
-
C.
Ông Giuốc-đanh muốn trở thành người sang trọng.
-
D.
Ông Giuốc-đanh muốn giỏi âm nhạc như giỏi kiếm thuật và triết lý.
Dòng nào sau đây không nêu đúng phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh được biểu hiện trong bài thơ?
“Thừa chu thuận thủy vãng
Ung Ninh Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình
Lưỡng ngạn hương thôn trù mật thậm
Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.”
(Hồ Chí Minh, Bán lộ tháp thuyền phó Ung)
Dịch thơ:
“Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình
Làng xóm ven sông đông đúc thể
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.”
(Nam Trân dịch, Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh)
-
A.
Phong thái ung dung, tự tại.
-
B.
Tinh thần lạc quan, yêu đời.
-
C.
Tính chất bi tráng, hào hùng.
-
D.
Màu sắc cổ điển kết hợp hiện đại.
Nội dung của văn bản dưới đây là gì?
“Tôi vừa bỏ học sau sáu học kỳ “dùi kinh nấu sử” ở trường Luật. Suốt thời gian đó, sở thích duy nhất của tôi là đọc sách. Tôi có thể đọc ngấu nghiến bất cứ cuốn sách nào vớ được và học thuộc lòng những bài thơ độc đáo của Thế kỷ vàng Tây Ban Nha. Tôi đã đọc hầu hết các bản dịch cũng như nguyễn bản các tác phẩm được coi là nổi tiếng lúc bấy giờ và những cuốn sách đó đã cho tôi hiểu được kỹ năng cũng như các tiểu xảo cần có khi viết tiểu thuyết.”
(Gabriel Garcia Marquez, Sống để kể lại)
-
A.
Niềm đam mê học Luật và lối học “dùi kinh nấu sử” ở người viết.
-
B.
Niềm đam mê đọc sách và tình yêu văn chương ở người viết.
-
C.
Niềm đam mê sáng tác thơ ca và tiểu thuyết ở người viết.
-
D.
Niềm đam mê đọc các bản dịch và nguyên tác ở người viết.
Dòng nào sau đây nêu tên những tác phẩm cùng phong cách sáng tác của trường phái văn học hiện thực?
-
A.
Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Chí Phèo (Nam Cao).
-
B.
Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Giông tố (Vũ Trọng Phụng), Lão Hạc (Nam Cao).
-
C.
Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng).
-
D.
Lão Hạc (Nam Cao), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân).
Dựa vào thông tin dưới đây để trả lời các câu hỏi:
Càng chung sống lâu năm với nghề viết, tôi càng tin rằng văn chương nói riêng và nghệ thuật nói chung không nhằm và cũng không có khả năng phản ánh cuộc đời y như nguyên trạng (1). Ngay cả nhiếp ảnh là nghệ thuật gần với sự trung thực nhất cũng không thể phản ánh được mặt sau của quả táo (2). Nhưng ngay cả khi có thể mô tả cuộc đời như nó vốn là, văn chương cũng từ chối làm điều đó (3). Bởi nếu vậy, văn chương sẽ không có lí do để tồn tại: người đọc khôn ngoan sẽ đọc trực tiếp trong cuộc đời thay vì nhìn vào trang sách (4). Suy cho cùng, thế giới mà người đọc tìm thấy và muốn thấy trong những trang văn bao giờ cũng là thế giới đã được lọc qua tâm hồn của người viết; đó là thế giới đã được nhà văn tháo ra và lắp lại theo một cấu trúc và tỉ lệ hoàn toàn khác (5). Thông qua cung cách thiết kế cái thế giới văn chương đó, nhà văn gửi đi những thông điệp và tìm kiếm sự chia sẻ (6). Những thông tin đủ loại của đời thường, đã có báo chí, đài truyền hình và bà hàng xóm cung cấp (7). Người đọc thông minh bao giờ cũng chờ đợi ở những trang văn một hiện thực khác - một hiện thực cao hơn so với hiện thực ngoài kia (8).
(Nguyễn Nhật Ánh, Cảm ơn người lớn)
Xác định một từ/ cụm từ SAI về ngữ pháp hoặc ngữ nghĩa, logic, phong cách.
Kể từ khi được phát hiện, hang Sơn Đoòng đã khiến các chuyên gia, những người yêu hang động và đam mê du lịch nguy hiểm ngỡ ngàng, choáng váng vì vẻ đẹp lộng lẫy của nó.
-
A.
phát hiện
-
B.
lộng lẫy
-
C.
nguy hiểm
-
D.
choáng váng
Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời các câu hỏi dưới đây
(1) Vậy nguyên nhân nào dẫn đến bệnh dại?
Bệnh dại là thứ bệnh không thể dự đoán được. Các giai đoạn nhiễm bệnh bao gồm giai đoạn ủ bệnh có phạm vi từ vài ngày đến vài tháng, với các triệu chứng ban đầu giống cúm, một giai đoạn tác động nhiều đến thần kinh, hôn mê và sau đó là chết. Các triệu chứng chung ở giai đoạn sớm ở người, như mệt mỏi, sốt, buồn nôn, thường không cụ thể. Các triệu chứng thần kinh có thể gồm sự hung hăng, hỗn loạn, khó nuốt và bị tê liệt.
Phần lớn những người bị nhiễm bệnh dại đều do động vật cắn. Những con đường lây nhiễm ít phổ biến hơn là tiếp xúc với các màng nhầy của mắt, mũi hay miệng. Một khi virus nhảy vào cơ thể con người, nó có thể bắt đầu sao chép trong mô cơ hoặc sau đó đi trực tiếp vào não. Một khi nó lan sang các nội quan khác, người bệnh thường chết vì viêm não.
(2) Các trường hợp mắc bệnh dại có gia tăng?
Tỉ lệ mắc bệnh dại ở động vật biến thiên hằng năm. Trong suốt năm 2021, 54 khu vực pháp lý của Mỹ cho biết có 3.663 động vật nhiễm dại, suy giảm 18,2% so với năm trước. Các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, cụ thể từ đại dịch COVID-19, đã phải chịu cảnh đứt đoạn chủng ngừa bệnh dại trên động vật do tình hình đại dịch ảnh hưởng đến việc sản xuất vaccine và khả năng tiếp cận vaccine cũng như làm gia tăng số lượng các loài động vật hoang dã.
Các trường hợp mắc bệnh dại đã gia tăng ở nhiều quốc gia do những nhân tố sinh học và kinh tế xã hội. Ví dụ, ở Trung Quốc, các trường hợp mắc bệnh dại liên quan đến dân số đô thị và các trung tâm vận chuyển. Sự gần gũi một loài động vật nhạy cảm với một cộng đồng đang có dịch bệnh thì nguy cơ lây lan càng cao.
Sự gia tăng của nhiệt độ do biến đổi khí hậu có liên quan đến sự gia tăng của lan truyền bệnh dại bởi vì những thay đổi trong phạm vi sống của động vật. Ví dụ, ở những vùng ấm, sự liên quan về phân bố và sự thừa mứa các ổ mầm bệnh, như các loài động vật nhiệt đới như dơi quỷ, có thể gia tăng. Mức nhiệt gia tăng ở Bắc cực có thể làm gia tăng tần suất cáo Bắc cực và cáo đỏ tương tác với nhau và dẫn đến các dịch bệnh.
(Thanh Hương tổng hợp, Tại sao bệnh dại không dự đoán được và có thể gây chết người?, Tạp chí Tia sáng, ngày 29/02/2024)
Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời các câu hỏi.
(1) Tiền thân của cái bát có lẽ do con người dùng vỏ hoa quả như vỏ quả dừa và vỏ trai, sò để đựng thức ăn, sau đó có thể làm những chiếc bát bằng gỗ, cuối cùng cái bát ra đời [...]. Cái bát thuyền trong các mộ thời Hán có dạng như một lòng bàn tay, có hai cạnh để cầm và nó cũng giống như hình một chiếc thuyền thúng. Tuy nhiên, trừ cái bát thuyền ra, mọi cái bát khác đều có thể tích cơ bản là hai lòng bàn tay chụm lại, mà con người đã từng làm như thế để uống nước. Đó chính là chiếc bát ăn cơm thông thường ngày nay. Song, hình như con người lại không ưa một sự mô phỏng thuần tuý như thế, những chiếc bát men đen, men ngọc thời Lý và những chiếc bát đàn thời Hậu Lê lại có dạng loe miệng và thót đáy như một cái nón, khả năng vuốt bàn xoay hình nón cũng dễ hơn vuốt hình tròn cong đều từ chân lên thành. Cái bát cong đều như thế có trong gốm hoa lam thời Trần và chúng có chân rất cao. Một cải tiến nữa kết hợp giữa bát hình nón và bát chân cao sinh ra cái bát chiết yêu duyên dáng thế kỉ XVIII – XIX.
(2) Đồ gốm gia dụng thời Lý – Trần quá thanh nhã khiến chúng ta không thể tưởng tượng rằng có thời con người sống cao sang như thế, nếu như đồ gốm phản ánh sự sử dụng và món ăn chúng chứa đựng. Những chiếc chậu, những chiếc âu mà hôm nay chúng ta nâng niu như cổ vật quý hiếm thì ngày xưa chúng chỉ được để rửa ráy chân tay mà thôi. Ở nông thôn, những gia đình trung bình đều có một chạn bát đĩa thường dụng và một vài rổ bát đĩa cất trong buồng dùng khi có cỗ bàn. Bát ăn cơm, bát chiết yêu, ang và âu, đĩa lòng nông vài cỡ, đũa cả, đũa ăn, muôi bằng gỗ, còn thìa thì hầu như không có, và thế là đủ cho một bữa ăn gia đình, tối bắc chống nhỏ ra sân đặt mâm cơm lên, mọi người ngồi xung quanh bằng ghế đẩu. Những đồ gốm này thường có men trắng đục, trắng xanh, ít hoa văn, mỏng manh, dễ vỡ, cấu tạo đơn sơ, chất lượng đất không tỉnh, nhưng giá rẻ. [...] Ngay từ cuối thời Trần, làng Bát Tràng đã sản xuất những loại gốm gia dụng men lam như thế, một số đồ đẹp dâng cho triều đình, còn lại, bán ra cho dân. Từ sau thế kỉ XV, xu hướng đồ dân gian và cung đình ngày càng tách biệt, thậm chí triều đình còn mở những lò riêng hoặc đặt những lô hàng riêng có đề chữ Nội phủ, hơn nữa là sang Trung Hoa đặt mua đồ gốm sứ cho hoàng triều. [...] Dân thành thị cũng có xu hướng dùng đồ gốm gia dụng Trung Hoa và Nội phủ, tạo ra sự phân biệt giữa nông thôn và thành thị trong thị trường đồ gốm.
(Phan Cẩm Thượng, Đồ gốm gia dụng của người Việt, in trong Văn minh vật chất của người Việt, NXB Thế giới, Hà Nội, 2018)
Đọc văn bản dưới đây và trả lời câu hỏi:
Cổ thụ
Không biết mình mấy chục người ôm
Không biết bóng mình trùm rộng, hẹp
Không biết mình nghìn năm tuổi...
Da thịt bọc kín những vết sẹo
Xanh rờn cùng gió mưa
Lúc nào lộc cũng tươi như đời mới bắt đầu.
Hoa cứ dâng hương sắc về phía nắng
Quả cứ thơm về phía đợi gieo mầm
Chim làm tổ phía sau giông bão
Những vết thương trong ruột thành trầm.
Kẻ giản đơn đo cây bằng thước tấc
Cắt da thịt cây để đếm vòng đời
Nghiền hoa quả tính độ đường, độ muối
Cây lặng im miền cành gãy, lá rơi.
(Nguyễn Minh Khiêm-vannghenamdinh.com)