Đọc Thư lại dụ Vương Thông và Chỉ ra các nguyên nhân tác giả cho rằng quân giặc tất yếu phải thua.
- Đọc đoạn 3.
- Đánh dấu những nguyên nhân tác giả cho rằng quân giặc tất yếu phải thua.
Cách 1
Các nguyên nhân tác giả cho rằng quân giặc tất yếu phải thua.
- Yếu tố về thiên thời: Nước lũ mùa hạ chảy tràn, cầu sàn, rào lũy sụp lở, củi cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm.
- Yếu tố về địa lợi: “Nước xa không cứu được lửa gần”, viện binh có đến thì cũng muôn phần phải thua, viện binh thua, bọn Vương Thông tất bị bắt.
- Yếu tố về nhân hòa:
+ Không được lòng dân do luôn luôn động binh dao, liên tiếp bày đánh dẹp.
+ Gian thần chuyên chính, bạo chúa giữ ngôi, người cốt nhục hại nhau, chốn cung đình sinh biến.
- Yếu tố về cả thiên - địa - nhân: Nghĩa quân Lam Sơn trên dưới cùng lòng, hăng say tập luyện, khí giới tinh, vừa cày ruộng, vừa đánh giặc; Quân sĩ trong thành của Vương Thông lại đều mỏi mệt, tự chuốc lấy bại vong.
- Đội quân hùng mạnh, tinh nhuệ, chiến mã khỏe của nhà Minh đều đóng cả ở biên giới phía bắc để phòng bị quân Nguyên, không dành cho việc xâm lược phương Nam mà cụ thể là Đại Việt.
Cách 2Các nguyên nhân tác giả cho rằng quân giặc tất yếu phải thua bao gồm “thiên thời”, “địa lợi”, “nhân hòa”.
- Yếu tố về thiên thời: Nước lũ mùa hạ chảy tràn, cầu sàn, rào lũy sụp lở, củi cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm.
- Yếu tố về địa lợi: "Nước xa không cứu được lửa gần", viện binh có đến thì cũng muôn phần phải thua, viện binh thua, bọn Vương Thông tất bị bắt.
- Đội quân hùng mạnh, tinh nhuệ, chiến mã khỏe của nhà Minh đều đóng cả ở biên giới phía bắc để phòng bị quân Nguyên, không giành cho việc xâm lược phương Nam mà cụ thể là Đại Việt.
- Yếu tố về nhân hòa: Không được lòng dân do luôn luôn động binh dao, liên tiếp bày đánh dẹp.
- Yếu tố về nhân hòa: Gian thần chuyên chính, bạo chúa giữ ngôi, người cốt nhục hại nhau, chốn cung đình sinh biến.
- Yếu tố về cả thiên - địa - nhân: Nghĩa quân Lam Sơn trên dưới cùng lòng, hăng say tập luyện, khí giới tinh, vừa cày ruộng, vừa đánh giặc; Quân sĩ trong thành của Vương Thông lại đều mỏi mệt, tự chuốc lấy bại vong.
Các bài tập cùng chuyên đề
Bài thơ Bảo kính cảnh giới - bài 57 của Nguyễn Trãi có câu: “Đao bút phải dùng tài đã vẹn”. Hình ảnh “đao bút” đã nói lên quan niệm gì về vai trò của nhà văn và văn chương trong hoàn cảnh đất nước có ngoại xâm?
Đọc văn bản Thư lại dụ Vương Thông và cho biết những từ nào được nhắc lại nhiều lần trong đoạn này? Điều đó có ý nghĩa gì?
Trong Thư lại dụ Vương Thông, tác giả nhắc đến những chuyện xưa nhằm mục đích gì?
Trong Thư lại dụ Vương Thông, Giải pháp tác giả đưa ra hợp lí như thế nào cho cả đôi bên?
Đọc Thư lại dụ Vương Thông và cho biết mục đích và đối tượng của bức thư. Việc tác giả chọn cách nghị luận dưới hình thức một bức thư có tác dụng như thế nào?
Trong đoạn trích dưới đây, câu văn nào nêu luận điểm, câu văn nào nêu lí lẽ, bằng chứng?
Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi. Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời thất thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại chuyển nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảnh khắc trở bàn tay mà thôi. Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời dối trá, thế chẳng phải là bọn thất phu hèn kém ư? Sao đáng để cùng bàn việc binh được?
Ở phần 2 văn bản Thư lại dụ Vương Thông, tác giả nhiều lần vạch rõ sự giả trá, gian dối của quân Minh và cho rằng như thế là trái với “mệnh trời”. Hãy dẫn ra một số từ ngữ, câu văn cho thấy điều đó. Theo bạn, vì sao việc nói đến “mệnh trời” lại cần thiết trong bức thư này?
Khái quát những nguyên nhân thất bại tất yếu của quân Minh mà tác giả đã vạch rõ trong phần 3 văn bản Thư lại dụ Vương Thông. Điều gì đã tạo nên tính chất đanh thép, quyết đoán trong phần này?
Trong phần 4 văn bản Thư lại dụ Vương Thông , tác giả đã gợi ra cho Vương Thông những lựa chọn nào? Từ đó, bạn hiểu gì về cách ứng xử của Nguyễn Trãi, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn?
Nêu những lưu ý trong cách đọc hiểu văn bản nghị luận mà bạn rút ra được sau khi đọc Thư lại dụ Vương Thông của Nguyễn Trãi. Nhận xét về nghệ thuật viết văn nghị luận của Nguyễn Trãi.