Phân tích cảnh cho chữ - cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
Xem lại văn bản Chữ người tử tù, chú ý cảnh cho chữ
Suy nghĩ về sự đặc biệt, độc đáo của cảnh này để viết
Trong nền văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân được biết đến với quan niệm thẩm mỹ trân trọng, đề cao cái đẹp, khám phá cái khác thường và xây dựng các hình tượng nhân vật mang đậm nét tài hoa nghệ sĩ. Phong cách nghệ thuật độc đáo của ông đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm Chữ người tử tù. Đây là thiên truyện ngắn kết tinh những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, trong đó cảnh cho chữ “xưa nay chưa từng có” diễn ra chốn ngục tù tăm tối đã ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về sự chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, cái ác.
Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, cảnh tượng cho chữ được diễn ra vào cuối tác phẩm và diễn ra trong hoàn cảnh trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường. Cảm động trước tấm lòng biệt nhỡn liên tài qua lời kể của thầy thơ lại, Huấn Cao đã đồng ý với ước nguyện của viên quản ngục, tạo nên một cảnh tượng độc đáo “xưa nay chưa từng có” diễn ra chốn ngục tù. Trong không gian đêm khuya vắng lặng, chỉ còn “văng vẳng tiếng mõ chòi canh”, dưới ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, nơi buồng giam chật hẹp và ẩm ướt, Huấn Cao - người tử tù “cổ đeo gông, ch”khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”. Tác giả Nguyễn Tuân đã vận dụng thành công thủ pháp đối lập để tái hiện thành công cảnh cho chữ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Trong hệ hình văn hóa thời trung đại, chơi chữ là một thú vui tao nhã, những nét chữ uốn lượn tung hoành còn thể hiện rõ phẩm chất, tài năng của bậc quân tử, đấng anh hùng. Bởi vậy, thú vui này thường gắn liền với những bối cảnh thanh tao như chốn viện sảnh, thư phòng, trà thất. Tuy nhiên, cảnh tượng cho chữ diễn ra trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” lại được khắc họa trong một bối cảnh hoàn toàn đối lập. Đó là buồng giam chật hẹp nơi tỉnh Sơn với sự tăm tối, chật hẹp, ẩm ướt, “tường đầy mạng nhện”, “đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Thời gian diễn ra cảnh cho chữ trong đêm khuya trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường đã tô đậm hơn nữa bối cảnh độc đáo của cảnh tượng này.
Không chỉ đặc biệt ở bối cảnh không gian và thời gian, cảnh cho chữ còn là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” bởi sự đảo lộn vị thế giữa người cho chữ và người nhận chữ. Huấn Cao - người cho chữ vốn là kẻ tử tù “đường bệ ung dung” phác họa những nét chữ thể hiện hoài bão, lí tưởng, còn viên quản ngục- người nhận chữ là đại diện cho quyền lực lại “khúm núm sợ sệt”. Giữa những phút giây đó, không còn tồn tại mối quan hệ xã hội giữa người tử tù và quản ngục, thơ lại, mà chỉ còn người nghệ sĩ tài hoa đang tạo ra cái đẹp - những nét chữ uốn lượn trước đôi mắt và sự kính phục của những tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và yêu cái đẹp. Những dòng chữ tươi tắn uốn lượn trên tấm lụa trắng hương thơm của thoi mực đã chiến thắng, lấn át sự lạnh lẽo, ẩm ướt chốn ngục tù tăm tối. Người tử tù vươn lên làm chủ, còn những người vốn có quyền uy tối cao tại buồng giam lại gọi Huấn Cao bằng danh xưng “Ngài”, “xin bãi lĩnh”, “xin lĩnh ý” đầy tôn kính và thái độ nhún nhường, khép nép cùng hành động cúi đầu, vái lạy trước tù nhân. Với cảnh tượng cho chữ độc đáo, chốn ngục tù đã trở thành nơi tri ngộ, gặp gỡ của những con người yêu và say mê cái đẹp. Không chỉ dừng lại ở đó, cảnh tượng cho chữ còn thể hiện những ý niệm sâu xa ẩn chứa trong lời khuyên của Huấn Cao dành cho viên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn, nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người... Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên của Huấn Cao đã thể hiện quan điểm thẩm mỹ và thái độ của ông về nghệ thuật và cuộc sống con người.
Thông qua việc tái hiện cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”, tác giả Nguyễn Tuân đã gửi gắm những ý niệm ẩn dụ về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật. Trước hết, sự thay đổi vị thế giữa các nhân vật đã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp trước những điều tầm thường, sự xấu xa, độc ác. Đồng thời, qua đó, vẻ đẹp của nhân vật đã được khắc họa rõ nét hơn. Hình tượng nhân vật Huấn Cao đã hiện lên chân thực, sinh động với phẩm chất, tài năng, khí phách hiên ngang, phi thường; còn bức chân dung viên quản ngục - “thanh âm trong trẻo chen giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ” được tô đậm hơn nữa ở tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và hướng về cái đẹp. Đặc biệt, lời khuyên của Huấn Cao dành cho viên quản ngục còn thể hiện quan điểm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân: “cái đẹp gắn liền với cái thiện”, sự thiên lương, trong sáng không thể tồn tại trong môi trường của cái xấu, cái ác.
Như vậy, bằng bút pháp lãng mạn, tác giả Nguyễn Tuân đã tái hiện thành công cảnh cho chữ diễn ra chốn ngục tù để thể hiện những giá trị tư tưởng sâu sắc. Đoạn văn còn thể hiện tài năng của nhà văn trong việc vận dụng thủ pháp tương phản, đối lập kết hợp ngôn ngữ giàu chất tạo hình, điêu luyện để tạo nên “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” về sự chiến thắng của cái đẹp.
Các bài tập cùng chuyên đề
Vấn đề chính được bàn luận là gì?
Bài nghị luận trên giúp người đọc có được hiểu biết gì về truyện ngắn Quà Giáng sinh?
Tác giả bài viết đã triển khai các luận điểm theo trình tự nào?
Phân tích và đánh giá nhân vật Dì Mây trong truyện “Người ở bến sông Châu” của Sương Nguyệt Minh.
Mở bài, thân bài và kết bài của ngữ liệu đã đáp ứng được yêu cầu của kiểu bài viết phân tích, đánh giá một truyện kể chưa? Vì sao?
Các luận điểm trong ngữ liệu được sắp xếp theo trình tự nào, có hợp lí không?
Trong mỗi luận điểm, ngữ liệu đã có sự kết hợp giữa lí lẽ, bằng chứng như thế nào? Nêu ví dụ.
Bạn có nhận xét gì về cách người viết phân tích, đánh giá ý nghĩa, giá trị của chủ đề?
Người viết đã phân tích, đánh giá những nét đặc sắc nghệ thuật nào của truyện kể? Chúng có tác dụng gì trong việc thể hiện chủ đề của truyện kể?
Từ ngữ liệu trên, bạn rút ra được những lưu ý gì khi viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện kể?
Hãy viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một truyện kể (thần thoại, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn, truyện cười, truyện cổ tích) mà bạn yêu thích.
Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) phân tích một số nét đặc sắc nghệ thuật của chùm Truyện về các vị thần sáng tạo thế giới trong SGK Ngữ Văn 10, tập một (tr.11-13).
Hãy lập dàn ý cho đề bài sau: Phân tích truyện thần thoại Tê-dê trong SGK Ngữ Văn 10, tập một (tr.38-42).
Bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện là gì?
Dưới đây là các bước cần thiết để viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện. Hãy sắp xếp các bước đó theo thứ tự phù hợp:
Tìm ý cho đề văn: Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Kiêu binh nổi loạn (Hoàng Lê nhất thống chí – Ngô gia văn phái).
Tìm ý cho đề văn: So sánh cách miêu tả, thể hiện nhân vật Trịnh Tông trong đoạn trích Kiêu binh nổi loạn và Quang Trung trong đoạn trích Quang trung đại phá quân Thanh (Hoàng Lê nhất thống trí – Ngô gia văn phái).
Lập dàn ý cho đề văn: Phân tích tính cách hai nhân vật Trương Phi và Quan Công trong Hồi trống Cổ Thành (trích Tam quốc diễn nghĩa) của La Quán Trung.
Phân tích nhân vật My trong văn bản Bầu trời của người cha và từ đó thể hiện quan điểm/ thái độ của cá nhân đối với người sống giàu ước mơ và người sống thực tế