Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
SỰ TÍCH QUẢ BẦU TIÊN
Ngày xửa, ngày xưa có một chú bé con nhà nghèo, nhưng vô cùng tốt bụng. Chú luôn luôn sẵn lòng giúp đỡ, chăm sóc mọi người, mọi vật xung quanh mình. Vì thế cứ mỗi độ xuân về, chim chóc lại ríu rít kéo nhau tới làm tổ, hót vang quanh nhà chú bé.
Một hôm có một con Cáo ở đâu mà tới bắt chim Én ở đầu nhà chú bé. Con Én non nớt bị rơi xuống đất gãy cánh. Chú bé vội lao ra cứu con chim. Chú ôm ấp vỗ về con Én nhỏ, làm cho nó một cái tổ khác và chăm cho con Én ăn. Nhờ sự chăm sóc tận tình của chú bé, con Én đã khỏi đau.
Mùa thu đến khi nhìn lên trời thấy từng đàn Én hối hả bay đi tránh rét ở phương Nam, con Én nhỏ phân vân nửa muốn bay theo đàn, nửa lại lưu luyến không nỡ rời chú bé. Hiểu được lòng Én, chú bé âu yếm bảo: “Én cứ bay theo đàn đi kẻo mùa đông lạnh lắm mùa xuân ấm áp thì Én lại trở về với anh”. Nói xong chú bé tung con Én nhỏ lên trời. Con Én đang chấp chới bay lên nền trời xanh biếc của mùa thu. Nó nhập vào một đàn Én lớn đang trên đường di cư về những xứ sở ấm áp ở phương Nam. Con Én nhỏ mau chóng tìm được niềm vui giữa bạn bè, nhưng nó không thể nào quên chú bé. Mùa xuân tươi đẹp đã tới, con Én nhỏ tìm về ngôi nhà đơn sơ nhưng đầm ấm tình thương của chú bé. Nó kêu lên thành tiếng mừng vui khi thấy chú bé đang ngồi đan sọt giữa sân. Đôi cánh Én chao liệng sà xuống và Én thả trước mặt chú bé một hạt bầu. Chú bé vùi hạt bầu xuống đất. Chẳng bao lâu hạt bầu đã nảy mầm thành cây. Cây bầu lớn nhanh như thổi, ra hoa, kết quả. Nhưng lạ chưa, quả bầu to khổng lồ, cả nhà chú bé mới khiêng về được một quả, khi bổ ra Ôi! Thật kì diệu! Trong quả bầu đầy vàng bạc, châu báu và thức ăn ngon.
Tên địa chủ trong vùng nghe được chuyện ấy. Hắn cũng muốn được chim Én cho nhiều quả bầu tiên. Hắn bèn tìm cách bắt một con chim Én con rồi bẻ gãy cánh. Sau đó hắn giả vờ thương xót con Én rồi đem về nuôi. Đến mùa thu, khi nhìn lên trời thấy đàn Én đầu tiên xuất hiện, hắn vội vàng ném con Én lên trời và bảo: “Bay đi Én con! Mau đi kiếm hạt bầu tiên về đây cho ta!” Con Én khốn khổ bay đi. Mùa xuân năm sau nó cũng trở về và đem theo một hạt bầu. Tên địa chủ hí hửng đem gieo và ngày đêm canh giữ. Khi quả bầu đã già, hắn bảo mọi người khiêng về rồi đuổi tất cả ra. Hắn đóng cửa lại rồi một mình hắn bổ quả bầu tiên. Quả bầu vừa được bổ ra, vàng bạc chẳng có, chỉ có rắn rết. Rắn rết từ trong quả bầu xông ra cắn chết tên địa chủ tham lam độc ác.
(Truyện “Quả bầu tiên” - Truyện dân gian Việt Nam)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
SỰ TÍCH QUẢ BẦU TIÊN
Ngày xửa, ngày xưa có một chú bé con nhà nghèo, nhưng vô cùng tốt bụng. Chú luôn luôn sẵn lòng giúp đỡ, chăm sóc mọi người, mọi vật xung quanh mình. Vì thế cứ mỗi độ xuân về, chim chóc lại ríu rít kéo nhau tới làm tổ, hót vang quanh nhà chú bé.
Một hôm có một con Cáo ở đâu mà tới bắt chim Én ở đầu nhà chú bé. Con Én non nớt bị rơi xuống đất gãy cánh. Chú bé vội lao ra cứu con chim. Chú ôm ấp vỗ về con Én nhỏ, làm cho nó một cái tổ khác và chăm cho con Én ăn. Nhờ sự chăm sóc tận tình của chú bé, con Én đã khỏi đau.
Mùa thu đến khi nhìn lên trời thấy từng đàn Én hối hả bay đi tránh rét ở phương Nam, con Én nhỏ phân vân nửa muốn bay theo đàn, nửa lại lưu luyến không nỡ rời chú bé. Hiểu được lòng Én, chú bé âu yếm bảo: “Én cứ bay theo đàn đi kẻo mùa đông lạnh lắm mùa xuân ấm áp thì Én lại trở về với anh”. Nói xong chú bé tung con Én nhỏ lên trời. Con Én đang chấp chới bay lên nền trời xanh biếc của mùa thu. Nó nhập vào một đàn Én lớn đang trên đường di cư về những xứ sở ấm áp ở phương Nam. Con Én nhỏ mau chóng tìm được niềm vui giữa bạn bè, nhưng nó không thể nào quên chú bé. Mùa xuân tươi đẹp đã tới, con Én nhỏ tìm về ngôi nhà đơn sơ nhưng đầm ấm tình thương của chú bé. Nó kêu lên thành tiếng mừng vui khi thấy chú bé đang ngồi đan sọt giữa sân. Đôi cánh Én chao liệng sà xuống và Én thả trước mặt chú bé một hạt bầu. Chú bé vùi hạt bầu xuống đất. Chẳng bao lâu hạt bầu đã nảy mầm thành cây. Cây bầu lớn nhanh như thổi, ra hoa, kết quả. Nhưng lạ chưa, quả bầu to khổng lồ, cả nhà chú bé mới khiêng về được một quả, khi bổ ra Ôi! Thật kì diệu! Trong quả bầu đầy vàng bạc, châu báu và thức ăn ngon.
Tên địa chủ trong vùng nghe được chuyện ấy. Hắn cũng muốn được chim Én cho nhiều quả bầu tiên. Hắn bèn tìm cách bắt một con chim Én con rồi bẻ gãy cánh. Sau đó hắn giả vờ thương xót con Én rồi đem về nuôi. Đến mùa thu, khi nhìn lên trời thấy đàn Én đầu tiên xuất hiện, hắn vội vàng ném con Én lên trời và bảo: “Bay đi Én con! Mau đi kiếm hạt bầu tiên về đây cho ta!” Con Én khốn khổ bay đi. Mùa xuân năm sau nó cũng trở về và đem theo một hạt bầu. Tên địa chủ hí hửng đem gieo và ngày đêm canh giữ. Khi quả bầu đã già, hắn bảo mọi người khiêng về rồi đuổi tất cả ra. Hắn đóng cửa lại rồi một mình hắn bổ quả bầu tiên. Quả bầu vừa được bổ ra, vàng bạc chẳng có, chỉ có rắn rết. Rắn rết từ trong quả bầu xông ra cắn chết tên địa chủ tham lam độc ác.
(Truyện “Quả bầu tiên” - Truyện dân gian Việt Nam)
Truyện Sự tích Quả bầu tiên thuộc thể loại nào?
Truyện Sự tích Quả bầu tiên thuộc thể loại nào?
Dựa vào đặc trưng thể loại
Thể loại: truyện cổ tích

Câu chuyện trên được kể theo ngôi thứ mấy?
Câu chuyện trên được kể theo ngôi thứ mấy?
Chú ý lời của người kể chuyện
Ngôi thứ ba
Trạng ngữ trong câu: “Mùa xuân tươi đẹp đã tới, con Én nhỏ tìm về ngôi nhà đơn sơ nhưng đầm ấm tình thương của chú bé” bổ sung ý nghĩa gì?
Trạng ngữ trong câu: “Mùa xuân tươi đẹp đã tới, con Én nhỏ tìm về ngôi nhà đơn sơ nhưng đầm ấm tình thương của chú bé” bổ sung ý nghĩa gì?
Vận dụng kiến thức về trạng ngữ
Trạng ngữ chỉ thời gian
Nhân vật cậu bé và tên địa chủ trong câu chuyện mang tính cách, phẩm chất gì? Em có nhận xét gì về cách xây dựng nhân vật trong truyện?
Nhân vật cậu bé và tên địa chủ trong câu chuyện mang tính cách, phẩm chất gì? Em có nhận xét gì về cách xây dựng nhân vật trong truyện?
Chú ý các chi tiết miêu tả cậu bé và tên địa chủ để nhận xét
- Phẩm chất và tính cách của nhân vật:
+ Cậu bé: Tốt bụng, nhân hậu, giàu lòng nhân ái, biết giúp đỡ người khác,…
+ Tên địa chủ: Độc ác, tham lam, ích kỷ…
- Nhận xét: hai nhân vật đại diện cho hai kiểu người trong xã hội. Cậu bé đại diện cho tuyến nhân vật chính diện; tên địa chủ đại diện cho kẻ phản diện
Viết đoạn văn từ 5-7 câu nêu ý nghĩa và bài học rút ra từ câu chuyện
Viết đoạn văn từ 5-7 câu nêu ý nghĩa và bài học rút ra từ câu chuyện
Từ nội dung rút ra ý nghĩa và bài học phù hợp. Gợi ý:
- Ý nghĩa: Ca ngợi những con người có tấm lòng nhân hậu, lương thiện, biết yêu thương thì sẽ nhận được hạnh phúc. Đồng thời phê phán kẻ tham lam, độc ác thì sẽ bị trừng trị thích đáng.
- Bài học:
+ Biết yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ người khác
+Yêu thiên nhiên, yêu thương các loài vật,…
Câu chuyện “Sự tích quả bầu tiên” mang ý nghĩa ca ngợi những con người nhân hậu, lương thiện, luôn biết yêu thương và giúp đỡ mọi người cũng như muôn loài xung quanh. Những người sống tốt sẽ nhận lại niềm vui, hạnh phúc và được đền đáp xứng đáng. Ngược lại, những kẻ tham lam, độc ác chỉ biết tính toán cho riêng mình thì sẽ phải chịu hậu quả đau đớn. Qua câu chuyện, ta rút ra bài học rằng mỗi người cần biết sống nhân ái, biết chia sẻ và giúp đỡ người khác trong lúc khó khăn. Đồng thời, chúng ta cũng cần yêu thiên nhiên, yêu thương các loài vật, bởi đó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Chỉ có lòng nhân hậu mới đem lại giá trị đích thực cho con người.

Các bài tập cùng chuyên đề
Các nội dung nào đã được nêu lên trong phần Yêu cầu cần đạt của Bài Mở đầu?
|
Bài mở đầu giúp HS hiểu được: |
A.Yêu cầu rèn luyện các kỹ năng đọc, viết, nói, nghe, các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung trong Chương trình Ngữ văn 2018 |
|
B. Những nội dung chính và hình thức cơ bản của một văn bản – tác phẩm văn bản |
|
|
C. Nội dung khái quát, cấu trúc của sách và các bài học trong SGK Ngữ văn 6 |
|
|
D. Phương pháp học vầ yêu cầu đánh giá kết quả học tập |
Phương án nêu đúng những loại văn bản lớn trong SGK Ngữ văn 6?
A. Văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn bản thông tin
B. Văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn bản truyện
C. Văn bản nghị luận, văn bản thông tin, văn bản thơ lục bát
D. Văn bản nghị luận, văn bản thông tin, văn bản truyền thuyết
Phương án nêu đúng những loại văn bản lớn trong SGK Ngữ văn 6?
A. Văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn bản thông tin
B. Văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn bản truyện
C. Văn bản nghị luận, văn bản thông tin, văn bản thơ lục bát
D. Văn bản nghị luận, văn bản thông tin, văn bản truyền thuyết
Phương án nào nêu tên các thể loại của văn bản văn học trong SGK Ngữ văn 6?
A. Truyện, thơ, văn bản thông tin
B. Truyện, thơ, văn bản nghị luận
C. Truyện thơ, kí
D. Truyện, văn nghị luận, văn bản thông tin.
Trong Bài Mở đầu, mục I gồm: Đọc hiểu văn bản truyện; Đọc hiểu văn bản thơ; Đọc hiểu văn bản kí; Đọc hiểu văn bản nghị luận; Đọc hiểu văn bản thông tin; Rèn luyện tiếng Việt. Phương án nêu đúng nội dung chính các phần lớn của mỗi mục?
A. Nêu lên mục tiêu các bài học
B. Nêu lên các yêu cầu cần đạt
C. Tóm tắt nội dung các bài học
D. Tóm tắt cách đọc các văn bản
a) SGK Ngữ văn 6 hướng dẫn em đọc hiểu những thể loại truyện nào?
A. Truyền thuyết, cổ tích, đồng thoại, truyện ngắn
B. Truyền thuyết, truyện nước ngoài, truyện ngắn
C. Truyền thuyết, đồng thoại, truyện nước ngoài
D. Truyền thuyết, cổ tích, đồng thoại, truyện dân gian
b) Đọc mục 1. Đọc hiểu văn bản truyện trong SGK và điền vào cột bên phải tên văn bản có nội dung nêu ở cột bên trái:
|
Nội dung |
Tên văn bản |
|
Truyện về hai cha con Dế Vần và chú chim nhỏ |
|
|
Truyện về ông lão đánh cá và bà vợ tham lam, ích kỉ |
|
|
Truyện về chàng trai nghèo nhưng trung thực, dũng cảm, bao dung |
|
|
Truyện về một nhân vật kiêu căng, hống hách nhưng biết ân hận về những việc làm không đúng |
|
|
Truyện về ba người bạn nhỏ, ban đầu có ý định trả thù, cuối cùng kết thức thành một khối yêu thương |
|
|
Truyện về người em gái có tấm lòng và tình cảm trong sáng, vô tư |
|
|
Truyện về sự tích vua Lê trả lại gươm thần |
|
|
Truyện về người anh hùng làng Gióng đánh giặc cứu nước |
|
|
Truyện về em bé tội nghiệp chết vì đói rét trong đêm Giáng Sinh |
|
Đọc mục 2. Đọc hiểu văn bản thơ trong SGK và điền vào cột bên phải tên văn bản có nội dung nêu ở cột bên trái:
|
Nội dung |
Tên văn bản |
|
Cảm xúc nghẹn ngào về nhà thăm mẹ |
|
|
Hình ảnh hồn nhiên, nhí nhảnh của chú bé liên lạc dũng cảm |
|
|
Những xúc động, bâng khuâng khi nghĩ về bàn tay của mẹ |
|
|
Ca ngợi, đề cao công cha, nghĩa mẹ |
|
|
Tình cảm da diết, cảm động của người chiến sĩ đối với Bác Hồ |
|
|
Hình ảnh và tâm tư, suy nghĩ của chú gấu con ngộ nghĩnh, hồn nhiên, vui nhộn |
|
Đọc mục 3. Đọc hiểu văn bản kí trong SGK và điền vào cột bên phải tên văn bản có nội dung nêu ở cột bên trái:
|
Nội dung |
Tên văn bản |
|
Qua văn bản, các em sẽ được cảm nhận thế nào là tình mẫu tử sâu nặng |
|
|
Đó là những ghi chép về tuổi thiếu niên của nhà sáng lập hãng xe Honda nổi tiếng của Nhật Bản |
|
|
Qua văn bản, các em sẽ hiểu thêm về một mảnh đất nổi tiếng phương Nam |
|
Đọc mục 4. Đọc hiểu văn bản nghị luận trong SGK và điền vào cột bên phải tên văn bản có nội dung nêu ở cột bên trái:
|
Nội dung |
Tên văn bản |
|
Phân tích nội dung, ý nghĩa của truyện Thánh Gióng |
|
|
Chỉ ra sự cảm nhận tinh tế của tác giả dân gian trước vẻ đẹp của cô gái và cánh đồng lúa mênh mông, bát ngát |
|
|
Giúp em hiểu vì sao Nguyên Hồng lại viết rất hay về tầng lớp những người cùng khổ |
|
|
Giải thích vì sao phải tiết kiệm nước ngọt |
|
|
Lí giải về những lợi ích của vật nuôi trong nhà |
|
|
Nhấn mạnh sự cần thiết của việc bảo vệ động vật |
|
Đọc mục 5. Đọc hiểu văn bản thông tin trong SGK và sắp xếp tên các văn bản thông tin theo hai đề tài vào bảng sau:
|
Tên văn bản |
Thuật lại một lịch sử sự kiện |
Thuật lại một sự kiện văn hóa, thể thao, khoa học |
|
Giờ Trái Đất |
|
|
|
Phạm Tuyên và ca khúc mừng chiến thắng |
|
|
|
Hồ Chí Minh và “Tuyên ngôn độc lập” |
|
|
|
Diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ |
|
|
|
Điều gì giúp bóng đá Việt Nam giành chiến thắng? |
|
|
|
Những phát minh “tình cờ và bất ngờ” |
|
|
Phương án nào không phải là dạng bài tập tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 6?
A. Nhận biết đơn vị tiếng Việt.
B. Phân tích tác dụng của đơn vị tiếng Việt
C. Phân tích hệ thống các đơn vị tiếng Việt
D. Tạo lập đơn vị tiếng Việt.
Xác định tên các kiểu văn bản (Phần II. Học viết trong SGK) và yêu cầu cơ bản của mỗi kiểu văn bản tương ứng được rèn luyện viết ở SGK Ngữ văn 6.
Phương án nào sau đây nêu đúng thứ tự các bước mà người viết cần thực hiện để viết một văn bản?
A. Tìm ý và lập dàn ý, chuẩn bị, viết bài, kiểm tra và chỉnh sửa bài viết
B. Chuẩn bị, tìm ý và lập dàn ý, viết bài, kiểm tra và chỉnh sửa bài viết
C. Lập dàn ý, chuẩn bị, tìm ý và viết bài, kiểm tra và chỉnh sửa bài viết
D. Tìm ý và chuẩn bị, lập dàn ý, viết bài, kiểm tra và chỉnh sửa bài viết
Xem phần III. Học nói và nghe trong SGK, điền tóm tắt các yêu cầu của kỹ năng nói và nghe theo bảng sau:
|
Kĩ năng |
Yêu cầu |
|
Nói |
|
|
Nghe |
|
|
Nói, nghe tương tác |
|
Xem phần Cấu trúc của sách Ngữ văn 6 và ghi nhiệm vụ của HS vào cột phải.
|
Các phần của bài học |
Nhiệm vụ của HS |
|
Yêu cầu cần đạt |
|
|
Kiến thức ngữ văn |
|
|
ĐỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN - Tên văn bản - Chuẩn bị - Đọc hiểu TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH ĐỌC HIỂU - Tên văn bản - Chuẩn bị - Đọc hiểu |
|
|
VIẾT - Định hướng - Thực hành |
|
|
NÓI VÀ NGHE - Định hướng - Thực hành |
|
|
TỰ ĐÁNH GIÁ |
|
|
HƯỚNG DẪN TỰ HỌC |
|
Trình bày đặc điểm của văn bản truyện, văn bản truyền thuyết?
Ý nào dưới đây không thể hiện đặc điểm của nhân vật truyền thuyết?
a. Thường có những điểm khác lạ về lai lịch, phẩm chất
b. Nhân vật là những người bình thường, nghèo khổ
c. Thường gắn với sự kiện lịch sử và có công lớn đối với cộng đồng
d. Được cộng đồng truyền tụng, tôn thờ
Đặc điểm nào dưới đây không phải đặc điểm của cốt truyện truyền thuyết?
a. Thường xoay quanh công trạng, kì tích của nhân vật mà cộng đồng truyền tụng, tôn thờ
b. Thường sử dụng yếu tố kì ảo nhằm thể hiện tài năng, sức mạnh khác thường của nhân vật
c. Thường kết thúc có hậu, thưởng phạt phân minh
d. Cuối truyện thường gợi nhắc các dấu tích xưa còn lưu lại đến hiện tại
Đọc VB dưới đây và trả lời các câu hỏi bên dưới:
TRUYỀN THUYẾT VỀ NGỌC BÀ THIÊN Y A NA
Xưa, có hai vợ chồng một lão tiều phu, tuổi đã cao mà vẫn chưa có con. Họ cất nhà trên núi Đại An, cạnh một cửa sông, sinh sống bằng việc đốn củi và phát rẫy trồng dưa trên miền núi. Nhiều lần thăm rẫy thấy hễ trái dưa nào chín tới đều bị mất, ông lão có ý rình xem kẻ hái trộm dưa là ai.
Một đêm kia, dưới ánh trăng mờ, ông lão thấy một cô bé đang hái trộm dưa. Cô vừa hái dưa vừa tung lên trời để đùa nghịch. Ông lão bèn giữ lại hỏi, mới biết cô bé mồ côi cha mẹ sống lưu lạc ở vùng này. Thấy diện mạo cô bé khác với người thường, lại ở vào hoàn cảnh đáng thương, vợ chồng ông lão đem lòng thương mến và đem về làm con nuôi, thương quý như con đẻ của mình. Vợ chồng ông lão cũng không hay biết rằng: chính cô bé mồ côi ấy là Thiên Y A Na hóa thân.
Đến một ngày kia vùng núi Đại An bị nạn hồng thủy, nước sông dâng lên một màu đỏ đục. Đứng trước cảnh tượng ấy, Thiên Y A Na bỗng nhớ tới cảnh tiên cung, mặt mày ủ dột, rồi để tự khuây khỏa, Thiên Y A Na đi hái hoa quả trên núi, xếp đá lại, tạo nên một cảnh núi non giả, ngồi ngắm nghía và đùa nghịch để khỏi bận tâm đến cảnh thủy tai đang diễn ra quanh mình. Vì thế, Thiên Y A Na bị ông lão quở trách nặng lời. Hối hận vì mình đã làm cho cha mẹ nuôi phiền lòng, Thiên Y A Na đã dùng phép hóa thân, nhập vào khúc gỗ trầm đang trôi ra biển cả, rồi dạt vào bờ biển Bắc. Nhân dân địa phương thấy khúc gỗ quý, xúm nhau lại, định khiêng về nhưng lạ thay hàng trăm người ghé vai vào đều không khiêng nổi.
Tin đồn đến tai thái tử miền nọ. Thái tử ra tận bờ biển nhấc thử, thì khúc gỗ được nhấc lên một cách nhẹ nhàng. Cho là điềm lạ, thái tử đem khúc gỗ về cung cất giữ coi như một vật quý hiếm. Một đêm nằm trằn trọc mãi không sao ngủ được, thái tử định đi sang thư phòng xem sách, khi đi ngang qua vườn thượng uyển, bỗng thấy một cô gái trẻ, đẹp đang dạo chơi ở đó. Nghe tiếng động, cô gái vội vàng chạy về phía hoàng cung rồi biến mất. Nhưng vào một đêm khác, cô gái xuất hiện. Thái tử có ý bí mật theo dõi, dò xét để biết thực hư. Một cuộc giáp mặt diễn ra quá bất ngờ, cô gái không kịp hóa phép ẩn mình vào khúc gỗ, đành phải kể lại lai lịch của mình cho thái tử nghe. Thái tử đem lòng thương yêu cô gái. Tin này liền đến tai vua cha. Nhà vua cho mời thầy đoán quẻ. Thấy có điềm lành, vua liền cho kết duyên vợ chồng.
Sau mấy năm trời chung sống hạnh phúc nơi đất Bắc, Thiên Y A Na vẫn nhớ về vườn dưa, nơi cha mẹ nuôi sống lam lũ, hiu quạnh. Nỗi thương nhớ thôi thúc Thiên Y A Na trốn thái tử, bỏ hoàng cung, cùng hai con biến vào khúc gỗ trầm, theo dòng nước biển trôi về quê hương người Chăm-pa ở cửa biển Cù Huân.
Nhưng khi trở về Đại An, bà mới biết rằng cha mẹ nuôi đã qua đời từ lâu. Thiên Y A Na bèn lập miếu thờ hai ông bà trên núi Đại An. Trong thời gian ngắn ngủi lưu lại ở Đại An, bà đã tạo lập vườn tược nơi đất cũ, bày dân làng cách làm ruộng, cách chữa bệnh và nuôi dạy con cái. Sau đó Thiên Y A Na tự tạc tượng mình bằng khúc gỗ trầm dựng trên núi Cù Lao, rồi cùng hai con ra đi. Về sau, dân chúng xứ này đem tượng đó vào miếu để thờ.
Thái tử biển Bắc, từ khi xa cách vợ con, lòng nhớ thương sầu muộn khôn nguôi, quên ăn, quên ngủ. Thái tử bèn xin cha mẹ cấp cho một đội chiến thuyền, hướng về Nam, giong buồm chạy suốt ngày đêm để tìm tung tích mẹ con Thiên Y A Na. Khi thuyền tới biển Cù Huân, thái tử cho người lên núi hỏi thăm dân chúng về Thiên Y A Na. Nhưng từ lâu lắm, dân chúng đã không thấy tăm tích của Bà đâu nữa. Chỉ biết rằng Bà rất linh ứng. Người ta đồn rằng Thiên Y A Na lúc thì cưỡi voi trắng dạo chơi trên đỉnh núi, lúc thì hiện thành hình tấm lụa trắng bay trên không trung, có lúc lại cưỡi cá sấu qua lại giữa Cù Lao và Hòn Yến. Trước mỗi lần Bà hiển linh như vậy, thường có mấy tiếng nổ to như sấm, tiếp đến, hào quang rực sáng cả một vùng.
Nhân dân địa phương nhớ công đức của Thiên Y A Na, tôn xưng là “Ngọc Bà” hay “Thánh mẫu”. Họ bỏ bao công sức và tâm huyết xây một ngôi tháp thật đẹp và uy nghi trên ngọn núi thiêng, nơi tiếp giáp với cửa sông, gọi là Tháp Bà. Ngôi tháp ấy là để thờ Bà, nhưng cũng để thờ Thái tử, chồng bà (tức thờ Ông), thờ vợ chồng ông lão Tiều phu, cha mẹ nuôi, cùng hai con của Bà. Trải qua mưa nắng thời gian, ngôi tháp đó vẫn tồn tại bền vững uy nghi cho đến tận ngày nay.
a. Vì sao Thiên Y A Na được dân trong vùng tôn xưng là “Ngọc Bà” hay “Thánh mẫu”?
b. Những đặc điểm nào ở nhân vật Thiên Y A Na trong VB trên giúp em nhận biết đó là nhân vật truyền thuyết?
c. Theo em, về cốt truyện, truyền thuyết về Ngọc Bà Thiên Y A Na đã thể hiện những đặc điểm nào của cốt truyện truyền thuyết?
d.Tìm một số dẫn chứng cho thấy truyện có sử dụng yếu tố kì ảo và cho biết tác dụng của chúng trong VB trên?
đ. Văn bản trên tuy không sử dụng lời của nhân vật, nhưng đặc điểm của các nhân vật vẫn được thể hiện rõ? Vì sao?
Hoàn thành bảng sau để so sánh đặc điểm cốt truyện truyền thuyết và cốt truyện cổ tích.
|
|
Cốt truyện truyền thuyết |
Cốt truyện cổ tích |
|
Điềm giống nhau |
|
|
|
Điểm khác nhau |
|
|
Đặc điểm nào sau đây là của nhân vật cổ tích?
a. Thường gắn với sự kiện lịch sử và có công lớn với cộng đồng.
b. Thường thuộc kiểu nhân vật bất hạnh, nhân vật dũng sĩ, nhân vật thông minh,...
c. Thường là loài vật hoặc đồ vật được nhân hoá.
d. Thường được cộng đồng truyền tụng, tôn thờ.
Nối các khái niệm ở cột A với nội dung khái niệm tương ứng ở cột B.
|
A (các khái niệm) |
B (Nội dung khái niệm) |
|
1. Đề tài |
a. Là phần lời người kể dùng để thuật lại một sự việc cụ thể hay giới thiệu, miêu tả khung cảnh, con người, sự vật… |
|
2. Chủ đề |
b. Là lời nói trực tiếp của các nhân vật trong truyện |
|
3. Người kể chuyện |
c. Là vấn đề chính mà VB nêu lên qua một hiện tượng đời sống |
|
4. Lời của người kể chuyện |
d. Là hiện tượng đời sống được miêu tả, thể hiện qua VB |
|
5. Lời của nhân vật |
đ. Là vai do tác giả tạo ra để kể các sự việc |
Đọc truyện Sọ Dừa (SGK Ngữ văn 6, tập một) và tóm tắt thành một VB ngắn gọn.
Trong truyện Em bé thông minh (SGK Ngữ văn 6, tập một), em vé đã vượt qua những thử thách nào? Các thử thách ấy có ý nghĩa gì trong việc thể hiện phẩm chất của nhân vật em bé thông minh?
Theo em, chủ đề của truyện Em bé thông minh (SGK Ngữ văn 6, tập một) là gì?
Đọc VB sau và trả lời các câu hỏi:
HÀ RẦM HÀ RẠC
Ngày xưa, ở một nhà nọ có hai anh em sống với nhau. Cha mẹ họ mất sớm, để lại một gia sản cũng vào hạng khá trong vùng. Ít lâu sau, người anh lấy vợ.
Anh bảo em:
- Bây giờ đã đến lúc phải chia gia tài ra để cho mày học ăn học làm với người ta.
Đến ngày chia của, anh chìa ra một tờ giấy, bảo em:
- Của cải của cha mẹ để lại có ba giống: giống đực, giống cái và giống con. Mày bé bỏng nên tao nhường cho mày tất cả những đồ đạc giống đực, còn giống cái và giống con thì phần tao, nghe chưa? Nếu mày bằng lòng thì kí vào đây!
Em ngây thơ tưởng là anh thương mình thật nên không nghi ngờ gì cả, ký ngay vào giấy. Cuộc chia của bắt đầu. Nhưng đồ vật nào mà chả gọi là “cái” hay là “con”. Người anh đếm mãi:
- Cái nhà này: của tao, con trâu này: của tao, cái chum này: của tao, cái cày, cái búa này: của tao…
Suốt từ sáng đến chiều, những của chìm của nổi chia đã sắp vợi đi mà vẫn chưa có một vật nào thuộc giống đực cả. Mãi đến lúc trời đã tối, người em tức mình mới chụp lấy một cây dao rựa dựng ở bờ hè mà nói rằng:
- Đây là “đực rựa” thuộc về phần tôi!
Nói xong, người em vác rựa lùi lũi đi ra giữa lúc người anh cười ha hà vì thấy mưu kế của mình đã đạt.
Từ đây, người em ngày ngày vác rựa vào rừng chặt củi làm kế sinh nhai. Vì không có nhà ở nên anh ta phải ăn nhờ ở đậu hết nhà người bà con này qua người quen khác. Có hôm phải năm đình nằm chùa, ngủ câu ngủ quán như kẻ cầu bơ cầu bất. Mặc dù khổ như vậy nhưng anh vẫn chăm chỉ làm ăn đề khỏi phải ngửa tay ăn xin mọi người.
Một hôm, trăng non vừa mọc, anh đang ngủ say tỉnh dậy tưởng trời đã sáng, bèn vớ lấy rựa đi miết lên rừng. Đến cửa rừng mới hay là mình nhầm: trời vẫn còn khuya. Anh bèn nằm duỗi chân dưới một gốc cổ thụ đợi sáng, nhưng bỗng dưng ngủ quên lúc nào không hay. Anh chàng không ngờ rằng nơi đây là chốn chơi đùa của một bầy khỉ. Hôm ấy chúng cũng kéo nhau đến đây, nhưng khi thấy dưới gốc cây có một người lạ nằm thẳng đuỗn thì tưởng là một thây người; chúng bèn xúm nhau khiêng đi chôn đề lây chỗ nhảy nhót. Đang đi, anh chàng bỗng tỉnh giấc, toan la lên, nhưng thấy chuyện hay hay, nên cứ nằm im xem bọn khỉ khiêng mình đi đến đâu. Hỏi lâu, anh nghe bầy khỉ dừng lại nói với nhau:
- Hà rầm hà rạc, chôn vào hố bạc, không chôn hố vàng!
Nhưng trong bầy khỉ có một con khỉ đột đứng đầu, bảo chúng:
- Hà rầm hà rạc, chôn vào hố vàng, không chôn hố bạc!
Thế là bầy khỉ lại tiếp tục khiêng anh tới một chỗ khác xa hơn. Đến nơi, chúng đặt anh xuống, rồi kéo nhau trở về gốc cổ thụ. Anh chàng nhìn thấy xung quanh mình có những cục vàng sáng chói thì mừng lắm, bèn chờ cho chúng đi khuất mới đứng đậy nhặt đầy túi mang về. Từ khi trở nên giàu có, anh chàng hết làm nhà cửa lại tậu ruộng vườn, nuôi trâu bò, cuộc đời muôn phần tươi hơn trước.
Câu chuyện một người tiều phu lên núi bắt được vàng từ đó lan đi khắp nơi. Người anh nghe nói nửa tin nửa ngờ. Một hôm vào ngày giỗ cha, hắn thấy em mình tìm đến mời về nhà ăn giỗ. Hắn vội vã nhận lời. Bước vào nhà em, người anh không giấu được kinh ngạc:
- Từ dạo ấy đến giờ chú mày làm thế nào mà phát tài dữ vậy?
Người em vui vẻ kể tỉ mỉ cho anh nghe câu chuyện lên rừng gặp khi, và từ hố bạc tình cờ được chúng chuyển sang hố vàng. Nghe xong, người anh mượn ngay cây rựa, và cũng chờ một đêm trăng non, một minh vác rựa lên cửa rừng. Hắn ta cũng giả vờ duỗi chân nằm dưới gốc cổ thụ nọ. Lát sau, quả nhiên có một bầy khỉ đến nhảy nhót xung quanh góc cây. Khi thấy có người lạ nằm choán chỗ chúng vui đùa, chúng cũng xúm lại khiêng đi chôn, vì tưởng rằng đó là một cái thây người chết. Nhưng đến lúc nghe bầy khỉ nói: “Hà rầm hà rạc, chôn vào hố bạc, không chôn hố vàng!” thì hắn vội ngửng đầu cãi lại:
- Chôn vào hố vàng chứ! Chôn vào hố vàng chứ!
Bầy khỉ không ngờ cái thây người vẫn còn sống, cuống cuồng quẳng hắn xuống rồi bỏ chạy. Hắn bị lăn xuống sườn núi, đầu va vào đá, vỡ sọ chết.
(Theo Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 4, Viện Văn học xuất bản, 1993)
a. Truyện này kể về kiểu nhân vật nào? Vì sao em lại xác định như vậy?
b. Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Những từ ngữ nào cho em biết điều đó? Việc sử dụng ngôi kể đó có tác dụng gì?
c. Trong đoạn văn sau đây, đâu là lời của người kể chuyện, đâu là lời của nhân vật?
Người em vui vẻ kể tỉ mỉ cho anh nghe câu chuyện lên rừng gặp khi, và từ hố bạc tình cờ được chúng chuyển sang hố vàng. Nghe xong, người anh mượn ngay cây rựa, và cũng chờ một đêm trăng non, một mình vác rựa lên cửa rừng. Hắn ta cũng giả vờ duỗi chân nằm dưới gốc cổ thụ nọ. Lát sau, quả nhiên có một bầy khỉ đến nhảy nhót xung quanh góc cây. Khi thấy có người lạ nằm choán chỗ chúng vui đùa, chúng cũng xúm lại khiêng đi chôn, vì tưởng rằng đó là một cái thây người chết. Nhưng đến lúc nghe bầy khỉ nói: “Hà rầm hà rạc, chôn vào hố bạc, không chôn hố vàng!” thì hắn vội ngửng đầu cãi lại:
- Chôn vào hố vàng chứ! Chôn vào hố vàng chứ!
d. Liệt kê vào bảng sau những hành động của người em và người anh ở từng sự việc:
|
Sự việc |
Người em |
Người anh |
|
Phân chia tài sản |
|
|
|
Lên rừng và gặp bầy khỉ |
|
|
Qua hành động trên, em hiểu được gì về phẩm chất của nhân vật người em và người anh?
đ. Liệt kê các yếu tố kì ảo trong truyện. Các yếu tố này có vai trò gì đối với số phận của nhân vật người em?
e. Sắp xếp các sự việc sau theo đúng trình tự xảy ra trong truyện bằng cách điền các chữ số vào sơ đồ:
(1) Người anh lấy tất cả tài sản. Người em chỉ có cái rựa.
(2) Một hôm, người em lên rừng gặp bầy khỉ và trở nên giàu có.
(3) Xưa, ở gia đình nọ, cha mẹ mất sớm để lại một gia sản khá lớn cho hai anh em.
(4) Người em không có nhà cửa, ruộng vườn nhưng rất chăm chỉ làm ăn.
(5) Người anh nghe kể sự tình, lập tức bắt chước người em lên rừng tìm gặp bầy khỉ và bị quẳng xuống vực sâu.
(6) Ít lâu sau, người anh lấy vợ. Cuộc phân chia tài sản diễn ra.
g. Dựa vào sơ đồ trên, em hãy kể tóm tắt câu chuyện.
h. Theo em, chủ đề của truyện này là gì?
i. Em thích nhất chi tiết nào trong truyện này? Vì sao?
k. Em có suy nghĩ gì về kết thúc của câu chuyện?
Chọn câu trả lời đúng để điền vào những chỗ trống trong đoạn văn sau:
Về cách gieo vần thông thường của một cặp câu lục bát, tiếng thứ (1) ...... của dòng lục vần với tiếng thứ (2) ...... của dòng bát kế nó, tiếng thứ (3) ...... dòng bát vần với tiếng thứ (4) ...... của dòng lục tiếp theo.
a. (1) sáu - (2) tư - (3) tám - (4) sáu
b. (1) sáu – (2) tám - (3) sáu - (4) sáu
c. (1) sáu - (2) sáu - (3) tám - (4) sáu
đ. (1) sáu - (2) tư - (3) tám - (4) sáu
Em hãy hoàn chỉnh câu văn sau:
Thơ lục bát là thể thơ ......, một cặp câu lục bát gồm có một dòng ...... và một dòng ......
Trong một câu thơ lục bát, các tiếng nào sau đây phải tuân thủ quy định chặt chẽ về cách phối hợp thanh điệu?
a. Các tiếng ở vị trí 3, 5, 7
b. Các tiếng ở vị trí 2, 4, 6
c. Các tiếng ở vị trí 6, 8
d. Các tiếng ở vị trí 2, 4, 6, 8
Dựa vào hiểu biết của em về cách gieo vần, luật bằng trắc và ngắt nhịp trong thơ lục bát, hãy xác định những VB sau có phải được viết theo thể thơ lục bát không. Hãy lý giải.
Công đâu công uổng công thừa,
Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan.
Công đâu công uổng công hoang
Công đâu gánh nước Tam Quan tưới dừa
Bến Tre giàu mía Mỏ Cày,
Giàu nghêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn.
Bến Tre biển cá sông tôm,
Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng.
(Theo Nguyễn Quốc Túy, Trần Gia Linh, Tục ngữ - Ca dao - Dân ca chọn lọc, NXB Giáo dục, 1993)


