CHỐN QUÊ
Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà không khá nhỉ?
Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho.
(Nguyễn Khuyến, dẫn theo Nguyễn Khuyến thơ và đời, NXB Văn học, 2012, tr10)
CHỐN QUÊ
Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà không khá nhỉ?
Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho.
(Nguyễn Khuyến, dẫn theo Nguyễn Khuyến thơ và đời, NXB Văn học, 2012, tr10)
Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
Căn cứ vào đặc điểm hình thức (số dòng thơ, số chữ mỗi dòng) để xác định thể thơ
Thất ngôn bát cú Đường luật
Những hình ảnh nào trong bài thơ gắn liền với hình tượng người nông dân nghèo khó?
Những hình ảnh nào trong bài thơ gắn liền với hình tượng người nông dân nghèo khó?
Đọc kĩ văn bản để xác định các hình ảnh gắn liền với hình tượng người nông dân nghèo khó
Làm ruộng nhưng mất mùa, thuế quan cao, nợ nần, sớm trưa dưa muối cho qua bữa, đi chợ chẳng dám mua gì.
Chỉ ra các biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu:
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Chỉ ra các biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu:
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Vận dụng kiến thức về các biện pháp tu từ để nhận biết
Phép đối, điệp
Em hiểu như thế nào về nội dung của câu thơ cuối: Nhờ trời rồi cũng mấy gian khó.
Em hiểu như thế nào về nội dung của câu thơ cuối: Nhờ trời rồi cũng mấy gian khó.
Căn cứ vào nội dung câu thơ
Bộc lộ tinh thần lạc quan và khát vọng về cuộc sống ấm no của người lao động.
Bài thơ cho thấy phẩm chất gì ở nhân vật trữ tình?
Bài thơ cho thấy phẩm chất gì ở nhân vật trữ tình?
Căn cứ vào nội dung văn bản để nhận xét nhân vật trữ tình
- Sự đồng cảm sâu sắc trước cuộc sống khốn khó của người lao động nghèo và khát vọng về một cuộc sống ấm no, đủ đầy cho người dân quê hương.
- Thái độ trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người lao động nghèo.
Nhận xét về tấm lòng của nhà thơ Nguyễn Khuyến dành cho người nông dân.
Nhận xét về tấm lòng của nhà thơ Nguyễn Khuyến dành cho người nông dân.
Căn cứ vào nội dung văn bản kết hợp liên hệ hiểu biết về tác gia
Tấm lòng nhà thơ với người nông dân:
- Đồng cảm, thấu hiểu của tác giả với những người dân trong xã hội cũ.
- Lên án xã hội phong kiến bất công, chà đạp lên quyền sống con người, gây ra cuộc sống đói nghèo, khổ cực của họ.
Từ nội dung của bài thơ, anh/chị hãy viết đoạn văn về vai trò của quê hương đối với mỗi người (trả lời trong khoảng 5 - 7 dòng).
Từ nội dung của bài thơ, anh/chị hãy viết đoạn văn về vai trò của quê hương đối với mỗi người (trả lời trong khoảng 5 - 7 dòng).
Liên hệ bản thân để trình bày vai trò của quê hương với mỗi người
Gợi ý:
- Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn của mỗi người.
- Quê hương là cội nguồn sinh trưởng và điểm tựa cho sự trưởng thành của mỗi người.
- Yêu mến, trân trọng, gắn bó với quê hương là một đạo lí tốt đẹp, cũng là thước đo nhân cách của mỗi người…
Các bài tập cùng chuyên đề
Xing Nhã trả thù nhà
(Trích Xing Nhã)
Giới thiệu: Xing Nhã là sử thi nổi tiếng của dân tộc Ê-đê (Tây Nguyên). Tác phẩm kể về các cuộc chiến đấu của Xing Nhã để báo thù cho cha, cứu mẹ khỏi cảnh đọa đày, đưa buôn làng trở lại cảnh yên vui ngày trước. Đoạn trích dưới đây kể về cuộc chiến đấu cuối cùng của Xing Nhã với anh em Gia – rơ Bú.
Bang Ra và Xing Yuê(1) – Ta hãy lấy bảy ché rượu ngon, bảy con trâu đực trắng, cúng cho Trời, cho Đất phù hộ con trai ta khoẻ mạnh. Ta hãy lấy con gà cúng thần Nước, ta lấy con lợn cúng Y Rít phù hộ con trai ta khôn lớn, đừng đi chết bỏ xương nơi đất khác.
Hai bên đánh nhau. Năm em trai của Gia-rơ Bú đã bỏ đầu tại gốc cây đa, bỏ thân tại núi lạ. Gia-rơ Bú bứt rứt, ngồi không yên, nằm không được, tay trái lấy chiếc khiên, tay phải nắm cán đao, Gia-rơ Bú đi vào rẫy của Hơ-bia Bơ-lao(2 ).
Xing Nhã – (Gặp Gia-rơ Bú) Ơ Gia-rơ Bú, ai chạy trước?
Gia-rơ Bú - Hỡi con chim linh mọc chưa đủ lông cánh(3), hãy múa thử đi!
Xing Nhã quay khiên múa. Đất bụi bay mù mịt như mây trời tháng Bảy. Xing Nhã nhảy qua trái núi, lượn qua con suối, phăng qua đầu đèo, nhanh hơn bầy chim diều chim ó. Gia-rơ Bú nhìn theo, tối mày tối mặt, không đoán được đường đao của Xing Nhã chĩa về hướng nào.
Gia-rơ Bú – Được, bây giờ ta không giết được mày thì ta sẽ tìm cách phá sạch làng mày! Té ra đứa nào cũng là đầu đen máu đỏ(4 ) cả sao?
Xing Nhã – (ngừng múa) Ơ Gia-rơ Bú! Ta đang đứng ở phía Mặt Trời mọc đây rồi. Bây giờ thì ngươi múa đi, ta đuổi theo.
Gia-rơ Bú múa lúng túng, múa loanh quanh như con gà mắc nước, như sao lạc đường. Đường đao chỉ đâm vào giữa trống không.
Xing Nhã mới đi một bước, đã chém trúng ngay chân Gia-rơ Bú.
Xing Nhã – Ơ Gia-rơ Bú, máu gì chảy ở chân đấy?
Gia-rơ Bú – Máu con vắt ở núi Hơ-mũ cắn tao.
Gia-rơ Bú múa tiếp, Xing Nhã chém luôn cánh tay phải, chiếc đao rơi “rỏn rẻn”…
Xing Nhã – Tại sao khiên của ngươi rơi mất rồi?
Gia-rơ Bú – Không phải! Đó là tiếng kêu của chiếc lục lạc cho trẻ con chơi, tiếng vù của con diều đói gió đấy!
Gia-rơ Bú cố sức múa nữa, nhưng lần này chưa kịp trở tay thì chiếc khiên đã bị Xing Nhã đánh vỡ tung, rơi xuống đất.
Cuối cùng đôi bên chỉ còn Pơ – rong Mưng( 5) và Xing Nhã đánh nhau.
[…] Trên trời, dưới đất, mây mưa mịt mù, gió bão ầm ầm, đổ cây lở núi. Hai bên đánh nhau từ khi trái khơ-la chín, đến mùa kê trổ, vẫn không phân thắng bại. Cả hai đều kiệt sức, ngã trước chòi của Hơ-bia Bơ-lao…
(Theo Bùi Văn Nguyên, Đỗ Bình Trị, Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam, Tập I : Văn học dân gian, phần III, NXB Giáo dục, 1974. Tr.219-228)
Chú thích:
1 Bang Ra và Xing Yuê: cha mẹ nuôi của Xing Nhã
2 Hơ-bia Bơ-lao: cô gái giữ rẫy cho Gia-rơ Bú và là người yêu của Pơrong Mưng.
3 Hỡi con chim linh mọc chưa đủ lông cánh: cách nói hàm chứa sự coi thường của Gia-rơ Bú dành cho Xing Nhã
4 Đầu đen máu đỏ: ý nói cúng đầu cứng cổ, gan góc, chẳng kiêng nể ai
5 Pơ –rong Mưng: em trai thứ bảy của Gia-rơ Bú
Vua Janaka có một cây cung vĩ đại, trước kia có lúc đã là của thần Xiva; thần đã bỏ cây cung lại và giao cho một ông tổ của dòng dõi Janaka gìn giữ, và đã trở thành môt món gia tài. Xita, bấy giờ là một em bé gái, là một món quà của mẹ Đất gửi cho vua Janaka và được nhặt trong một luống cày khi cánh đồng đang được cày lên. Vua Janaka nhận đứa bé, chăm sóc nó, và cô ta cứ thế lớn lên, đẹp đẽ vô cùng, đến nỗi rất nhiều vị hoàng tử đến chật ních cả cung điện Janaka với hy vọng sẽ là ý trung nhân của nàng. Vì lúng túng không thể thiên vị với riêng ai, và cũng để giữ gìn chung cho họ, vua Janaka đặt điều kiện rằng ai có thể nhấc cây cung của thần Xiva lên, giương cung và bắn được, thì người đó sẽ là chồng của Xita. Khi những anh chàng kia nhìn thấy chiếc cung thì họ hiểu ngay rằng đây là một điều kiện không có hy vọng gì chấp nhận nổi. Họ ra đi lòng đầy căm giận, và sau này trở lại có những đạo quân đi theo, với ý định chiếm Xita bằng vũ lực. Nhưng vua cha đã chống trả lại những cuộc tấn công đó, và cuối cùng những anh chàng kia phải chịu rút lui. Thời gian cứ thế trôi qua, và vua Janaka đâm ra lo lắng không biết con gái mình rồi đây có thể có chồng được chăng – một khi điều kiện đã đặt ra rồi thì không thể nào rút lại được. Không có ai trên mặt đất này xem ra có đủ sức lại gần cây cung của thần Xiva, Janaka thở dài: “Ta run sợ khi ta nghĩ đến tương lai của Xita, và tự hỏi mình sao đem gắn số phận của nàng vào cái món gia tài thiêng liêng và hùng mạnh này của nhà ta”.
(Lược một đoạn: Mọi người than thở vì không ai thực hiện được thử thách bắn cung để cưới Xi-ta)
…Trong khi mọi người đang suy nghĩ như vậy, thì Rama tiến đến gần cây cung. Trong số những người đứng xem có mấy người không chịu nổi phút chờ đợi đã nhắm mắt lại và cầu mong cho chàng được thành công; họ nói: “Nếu chàng thất bại không nhấc nổi hai đầu cung cùng một lúc, thì không biết việc gì sẽ xảy đến cho cô nương?”. Điều họ không thể nhìn thấy, vì họ đã nhắm mắt, là Rama đã nâng cây cung, kéo dây và giương cung lên nhanh chóng, nhẹ nhàng như thế nào. Họ giật mình khi nghe cây cung vì không chịu nổi sức ép của bàn tay Rama, đã bật lên một tiếng vang trời.
Không khí bỗng nhẹ hẳn. Các vị thần tung hoa xuống chúc mừng, các đám mây bay đi và tung mưa xuống, các đại dương cũng tung lên tất cả những kho tàng quý giá lấy từ trong sâu thẳm lòng mình. Các bậc hiền nhân kêu to: “Những dằn vặt lo âu và thử thách của nhà vua đã chấm dứt rồi”. Không gian tràn đầy tiếng nhạc. Người ta tặng hoa, xức dầu thơm cho nhau, ôm hôn nhau và tung phấn thơm lên trời. Người ta mặc những bộ quần áo sang trọng nhất, tập hợp chỗ cổng điện hoặc chỗ công viên rồi hát, rồi múa rất thoải mái; tiếng kèn, tiếng sáo và tiếng trống tạo ra một thứ tiếng ồn át cả những tiếng hát, tiếng ca rất lớn thoát ra từ nhiều cổ họng. Các vị thần, cả nam và nữ, theo dõi những cảnh vui chơi, hạnh phúc ở dưới trần, đội lốt người, trà trộn trong đám đông và chia sẻ niềm vui với họ. “Không có được hàng nghìn con mắt nhìn và thưởng thức thì chẳng bao giờ vẻ đẹp hoàng vương của chàng rể chúng ta có thể được hiểu ra một cách đầy đủ như vậy”. Các bà cùng nhau bình luận: “Này hãy nhìn xem người em của chàng! Sao mà đẹp trai đến thế nhỉ! Hạnh phúc thay những bậc bố mẹ đã sinh được những người con như vậy”.
(Trích Sử thi Ra-ma-ya-na - Van-mi-ki, dịch giả Đào Xuân Quý, NXB Đà Nẵng)
PHÁT RẪY DỌN RUỘNG, ĐI RỪNG SĂN THÚ
Đăm Săn nghỉ một ngày, ngơi một đêm, ở không thêm một đêm, một sáng. Chàng gọi:
ĐĂM SĂN: - Hỡi bà con dân làng, hỡi các em các cháu: Hội hè đã vãn. Bây giờ chúng ta phải bắt tay vào công việc làm ăn, phải đi thăm rẫy, thăm ruộng kẻo hụt muối thiếu thuốc, đến quả kênh (1) củ năn cũng không có mà ăn. (Nói với tôi tớ) Bở các con, chúng ta đi phát rẫy dọn ruộng, chúng ta đi rừng săn thú nào!
Thế là họ ra đi tìm rừng làm một rẫy bảy vạt núi. Phát xong, họ đốn cây. Sau đó ít lâu, họ đốt. Rồi, bà con xem, ai làm cỏ cứ làm cỏ, ai cào cứ cào.
TÔI TỚ: - Ô, thế mà chúng ta đã làm xong có rồi đó! Chúng ta cũng đã cào xong. Trời
đã bắt đầu mưa. Bở anh em, ta đi tria nào!
ĐĂM SĂN: - Khoan, khoan, ơ, các con! Hãy đợi ta lên ông Trời xin giống về đã!
Nói rồi Đăm Săn ra đi.
ĐĂM SĂN: - Ới ông ơi, ới ông ơi, thả thang xuống cho cháu!
ÔNG TRỜI: - Cháu lên có việc gì đó? Việc gấp lắm phải không?
ĐĂM SĂN: - Không có việc gì gấp đâu ông ạ. Cháu chỉ lên xin ông giống lúa thôi.
Ông Trời lấy lúa giống cho Đăm Săn. Ông cho đủ thứ, mỗi thứ một hạt.
ĐĂM SĂN: - Ông ơi, từng này sao đủ tria!
ÔNG TRỜI: - Sao lại không đủ? Cháu cứ tria mỗi gốc một thứ, mỗi gốc một thứ là đủ
đấy cháu ạ.
Đăm Săn tụt xuống đất về. Về đến nơi, chàng ra lệnh:
ĐĂM SĂN: - Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói, ở tất cả tôi tớ của ta bằng này, các người hãy một trăm người vạch luống, một nghìn người chọc lỗ trỉa đi!
Thế là, bà con xem, người đông nghìn nghịt tới tấp gieo tria, trông mù mịt như một đêm không trăng, tối kịt như một mở tơ đen vừa nhuộm, người cứ ùn ùn như kiến như mối.
TÔI TỚ: - Chu cha, thế mà tria xong rồi đó ông ạ!
ĐĂM SĂN: - Vậy thì ta làm chòi giữ rẫy đi!
Chòi rẫy làm xong, Đăm Săn ngủ lại để canh thú rừng đến phá rẫy, đuổi con két, con
công, đuổi con gà rừng, chim sẻ, chim ngói, coi chừng lũ khỉ trọc đến phá nương. Còn Hơ
Nhí, Hơ Bhí thì người ngồi may áo ở cửa chòi phía đông, người ngồi ở gầm nhà dệt vải.
(Trích Đăm Săn, NGUYỄN HỮU THẤU dịch, NXB KHXH, Hà Nội, 1988)
Nữ thần Lúa
Từ thời vua Hùng dựng nước đã truyền lại câu chuyện về thần Lúa, một vị thần xinh đẹp, dáng người ẻo lả và có tính hay hờn dỗi. Nàng là con gái Ngọc Hoàng. Sau những trận lụt lội ghê gớm xảy ra, sinh linh cây cỏ đều bị diệt hết, trời bèn cho những người còn sống sót sinh con đẻ cái trên mặt đất, sai nữ thần Lúa xuống trần gian, nuôi sống loài người. Nữ thần làm phép cho những hạt giống gieo xuống đất nảy mầm, mọc thành cây, kết bông mẩy hạt. Lúa chín tự về nhà không cần gặt và không phải phơi phóng gì cả. Cần ăn, cứ ngắt bông vào nồi là lúa sẽ thành cơm.
Một hôm cô con gái nhà kia đang bận việc. Sân chưa quét dọn, cửa kho cũng chưa mở, lúa ở ngoài đã ùn ùn kéo về. Cô gái cuống quít và đâm cáu. Sẵn tay đang cầm cái chổi, cô đập vào đầu bông lúa mà mắng:
- Người ta chưa dọn dẹp xong đã bò về. Gì mà hấp tấp thế?
Nữ thần Lúa đang dẫn các bông lúa vào sân, thấy sân, đường bẩn thỉu rác rưởi đã bực trong lòng, lại bị mang một cán chổi vào đầu, tức lắm. Cả đám lúa đều thốt lên:
- Muốn mệt thì ta cho mệt luôn. Từ nay có hái tre, liềm sắc cắt cổ tao, tao mới về.
Từ đó nữ thần Lúa dỗi, nhất định không cho lúa bò về nữa. Người trần gian phải xuống tận ruộng lấy từng bông. Thấy vất vả mệt nhọc quá, người ta mới chế ra liềm hái để cắt lúa cho nhanh. Và lúa cũng không tự biến thành cơm nữa, mà phải phơi phóng, xay giã cho ra gạo. Sự hờn dỗi của nữ thần Lúa còn đôi khi cay nghiệt hơn nữa. Nữ thần vẫn giận sự phũ phàng của con người, nên nhiều lần đã cấm không cho các bông lúa nảy nở. Có kết hạt cũng chỉ là lúa lép mà thôi. Vì thế sau này mỗi lần gặt xong là người trần gian phải làm lễ cúng hồn Lúa, cũng là cúng thần Lúa, với tiết mục “rước bông lúa”. Có nơi không gọi như thế thì gọi là cúng cơm mới.
Cũng vào lúc chế tạo ra lúa. Trời sai một vị thần đưa xuống hạ giới một số hạt giống lúa và một số hạt giống cỏ vãi ra khắp mặt đất để nuôi người và vật. Ban đầu thần gieo tất cả hạt giống cỏ ở trong tay trái. Cỏ mọc rất nhanh, chỉ trong một đêm đã lan tràn khắp cả mặt đất. Đến khi thần gieo hết một nửa số hạt giống lúa ở trong tay phải thì không còn một mảnh đất nào để gieo nữa. Thần đành đem nửa số hạt giống lúa về Trời. Do đó mà ở trên mặt đất cỏ mọc nhiều mà lại rất khoẻ còn lúa thì ít lại mọc rất khó khăn, nếu không chăm bón, làm cỏ thì bị cỏ át mất.
Khi biết rõ việc ấy Trời liền nổi giận đày thần xuống trần hóa làm con trâu, ăn cỏ đời này qua đời khác và kéo cầy cho loài người trồng lúa.
(Thần thoại về thần Lúa, Thần thoại Việt Nam, TheGioiCoTich.Vn)
NỮ THẦN MẶT TRỜI VÀ MẶT TRĂNG
Vua trên trời là Ngọc Hoàng có hai con gái đẹp. Ngọc Hoàng yêu quý hai nàng lắm nên cho các nàng hàng ngày luân phiên nhau đi xem xét mọi việc của hạ giới để báo lại cho nhà Trời. Cô gái đầu tên là Mặt Trời được ngồi kiệu hoa có bốn người khiêng. Bốn người này chia làm hai tốp: một tốp già và một tốp trẻ. Tốp các cụ già khiêng kiệu luôn luôn lo làm tròn phận sự, chăm chỉ vào công việc nên cô Mặt Trời thường đi một vòng rất nhanh. Còn tốp trẻ bản tính la cà nên những lần được phân công khiêng kiệu thường về muộn. Vì thế, mỗi lần Mặt Trời đi với tốp trẻ thì ngày dài, và đi với tốp già thì ngày lại ngắn.
Mặt Trăng là cô em tính tình nóng nảy còn hơn cả cô chị. Sức nóng của cô đã làm hại cho người và muôn vật khá nhiều. Ấy thế mà cô vẫn cứ chỏng lỏn(1), đi đâu cũng sà vào khiến cho nhân dân vô cùng kinh hãi. Trần gian khổ sở vì cô Mặt Trăng, họ đã kêu ca rất nhiều, tiếng thấu lên Thượng giới khiến cho bà mẹ đã định lấy tro mà bôi lên mặt cô để giảm bớt sức nóng đi. Nhưng Ngọc Hoàng chiều con, nên không để cho vợ làm việc ấy.
Bấy giờ ở dưới trần có một chàng trai tên là Quải. Quải là con mồ côi nhưng lại có một thân thể cực kỳ to lớn và sức khỏe tuyệt vời. Trước những hành động tai ác của cô Mặt Trăng, Quải quyết tâm trị cho một mẻ. Anh ta đón đường cô Trăng trên một đỉnh núi cao và trữ sẵn một đống cát thật lớn. Hôm ấy, cô Mặt Trăng vẫn quen thói cũ vừa đi vừa sà xuống để nhìn muôn vật, Quải chờ cho cô ta đến gần rồi bất thình lình bốc cát ném túi bụi vào mắt, vào mặt mũi cô. Cô Trăng đang rong chơi, bị tấn công đột ngột, nhắm mắt lại nhưng đất đã dính đầy mặt và chui cả vào trong mắt. Cô ta hốt hoảng vội vụt bay lên cao, lảng ra xa chỗ Quải đứng. Từ đó trở đi cô không dám sà xuống gần mặt đất nữa. Mặt mũi cô bị cát dính chặt nên không còn sáng được như xưa. Sau này tính tình của cô trở nên dịu dàng, hiền lành hơn, ở dưới trần ai cũng thích. Người ta nói mỗi lần cô ngoảnh mặt xuống nhân gian thì lúc đó là trăng rằm, cô quay lưng tức là ba mươi, mùng một, còn cô trở sang trái, sang phải tức là thời kỳ trăng hạ huyền(2) hoặc thượng huyền(3). Còn những khi trăng quầng, ấy là lúc cát bụi trát mặt bị gió thổi bay tung ra.
Lại nói chuyện chồng của hai nữ thần này. Đó là một con gấu rất to khỏe. Không rõ gấu từ đâu đến và Ngọc Hoàng đã gả các cô gái của mình cho gấu từ bao giờ. Chỉ biết rằng gấu rất hay ghen nên theo dõi sự đi lại của hai vợ mình rất chặt chẽ. Thỉnh thoảng gấu lại đòi chung tình với một người. Lúc đó là lúc ở dưới trần gian thường gọi là nhật thực và nguyệt thực. Gặp những ngày này, nhân gian lại phải đánh chiêng, đánh trống rầm rĩ để cho gấu sợ mà lui ra mau. Vì gấu làm như vậy thì có hại cho mùa màng và các nữ thần này cũng vì vậy mà xao nhãng công việc.
(Theo Viện Văn học, Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục, 1999, tr.61-62)
(1) Chỏng lỏn: (cách ăn nói) cụt ngủn với vẻ hỗn xược, gây cảm giác khó chịu.
(2) Hạ huyền: thời gian trăng vào khoảng đầu tuần cuối cùng của tháng âm lịch, Mặt Trăng đã khuyết thành hình bán nguyệt (thường là ngày 22 hoặc 23 âm lịch).
(3) Thượng huyền: thời gian vào khoảng giữa của nửa đầu tháng âm lịch, khi Mặt Trăng có hình bán nguyệt (thường là các ngày 7,8,9 âm lịch).
Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất thật vắng vẻ, không có người ở, không có loài vật sống và cũng chẳng có cây cối mọc.
Rồi một hôm bỗng ở vùng đất sống nứt ra một vệt dài. Từ trong lòng đất chui ra một người. Người đó là Ché Pe Á Lòng […]. Nhưng hết nhìn gần lại nhìn xa, Á Lòng chỉ thấy có mỗi mình, bụng Á Lòng không vui. Nghĩ ngợi một lát rồi chàng dùng đất nặn thành cây to, cây nhỏ cắm khắp đồi cao, đồi thấp, đồi cây lan ra mãi thành rừng cây. Sống được một ngày, chẳng hiểu sao lá cây rũ xuống không được vui. Bực quá Á Lòng giẫm mạnh chân xuống đất, chán nản. Không ngờ đất lún sâu xuống, một con nước từ dưới lòng đất trào lên. Nước ồng ộc đùn ra mãi, chảy thành suối nhỏ, chảy thành sông to. Nước chảy tới đâu cây hết buồn tới đó. Lá cứ xanh, cứ tươi lung linh ngút ngàn. Có cây, có rừng, mắt Á Lòng thấy vui muốn nhìn hơn. Nhưng cây chỉ biết đứng im một chỗ nói chuyện rì rào với gió. Á Lòng lại muốn có những con vật biết đi lại, chạy nhảy, bèn lấy đất nặn thành các muông thú, hà hơi rồi thả ra khắp rừng. Từ đấy trên trời mới có cánh chim bay qua, dưới đất mới có thú chạy nhảy.
Lúc ấy trái đất còn tối tăm lắm, chỉ có mỗi Á Lòng nhìn được, còn loài thú thì chịu chẳng nhìn thấy gì, chạy qua chạy lại cứ đâm vướng vào Á Lòng. Nghe muông thú than phiền vì thiếu ánh sáng. Á Lòng bèn nặn ra ba mặt trời, ba mặt trăng. Mặt trời được úp vào trước ngực hà hơi rồi thả lên vì vậy nên nóng. Mặt trăng chưa kịp úp vào đã thả lên nên mát lạnh.
Ba mặt trời ném lửa xuống nhiều quá làm cho cây cối loài vật bị chết la liệt. Thấy vậy Á Lòng làm một cái nỏ thật to bắn cho rụng hai mặt trời, một mặt trăng. Còn hai mặt trăng và một mặt trời nữa thì chạy chốn. Á Lòng đón rình ở sau một ngọn núi cao nhất bắn trúng một mặt trăng nữa. Nó bị mũi tên xuyên trúng giữa, vỡ vụn ra thành từng mảnh nhỏ bắn tung tóe khắp vòm trời cao vợi thành những ngôi sao. Sợ Á Lòng bắn rói một mặt trời và một mặt trăng còn lại chạy vội lên thật cao chứ không dám ở thấp như trước nữa.
Còn một mặt trời, một mặt trăng, mặt đất trở nên mát mẻ, dịu hòa hơn. Nhưng thấy loài người và vạn vật còn ít quá. Á Lòng dùng đất nặn nên vạn vật và loài người. Năm này qua năm khác mọi thứ được sinh sôi nảy nở ngày một đông đúc. Loài người và muôn vật được sống no đủ, mát mẻ, nên sinh sôi rất nhanh. Lo chật đất không đủ chỗ sống, Á Lòng lại phải lấy đất sống ném sang bên đất chết, trộn lẫn cho đất chết biến thành đất sống. Đất mới trộn chưa khô Á Lòng tranh thủ ngủ một giấc để lấy sức san cho mặt đất bằng phẳng. Trong lúc Á Lòng đang ngủ chẳng may có một cây Sò tu ma gióng to đổ đè lên người. Á Lòng chết xương biến thành đá, thịt thành đất. Đời này tiếp đời khác người ta cứ kể truyền cho nhau rằng: vì Ché Pe Á Lòng chưa kịp san xong nên mặt đất có chỗ lồi, chỗ lõm. Chỗ nào đã được Á Lòng san thì bằng phẳng mà nay to gọi là đồng bằng.
(Trích Sự tích mặt đất và muôn loài – Thần thoại dân tộc Hà Nhì, Tinh tuyển văn học Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 2004, tr.546-548)
Chiến công đầu tiên của chàng là diệt trừ con mãng xà Pithôn để trả thù cho người mẹ kính yêu của mình.
Xưa kia, khi nữ thần Hera biết chuyện tình duyên của Dớt với Lêtô thì một mặt nàng ra lệnh cho khắp nơi trên mặt đất không được tiếp đãi, chứa chấp Lêtô, một mặt nàng xin với nữ thần Đất mẹ Gaia sinh ra một con quái vật thật khủng khiếp để nó truy đuổi Lêtô. Gaia đã sinh ra con mãng xà Pithôn, một con trăn cực kỳ to lớn, đúng hơn phải nói đó là một con nửa rắn, nửa rồng, cực kỳ hung dữ. Pithôn đã đuổi bám theo dấu chân Lêtô khiến cho Lêtô lúc nào cũng nơm nớp lo âu. Nhưng rồi nhờ thần Pôxêidôn giúp đỡ, Lêtô mới đặt chân lên được hòn đảo Ortigi. Người xưa kể lại, chính nhờ thần Pôxêidôn nên mới ra đời hòn đảo Ortigi. Cảm thương số phận bạc bẽo của nàng Lêtô, thần đã giáng cây đinh ba xuống biển. Và thế là từ đáy biển nổi dềnh lên một hòn đảo nhỏ lênh đênh, trôi nổi.
Apôlông cưỡi trên cỗ xe do đàn thiên nga trắng muốt kéo, bay từ xứ sở của những người Hybebôrêen về Denphơ. Nơi đây dưới chân núi Parnax, trong một chiếc hang sâu tối đen không một tia nắng nào lọt tới, ẩm ướt, nhớp nháp, con mãng xà Pithôn sống và ngày ngày ra phá hoại hoa màu, săn bắt súc vật của những người dân lành. Có người nói, nó được nữ thần Thêmis giao cho canh giữ một lời sấm ngôn thiêng liêng hoặc là một mảnh đất thiêng liêng trên đó có ngôi đền thờ nữ thần Đất mẹ Gaia vĩ đại. Từ ngôi đền này nữ thần Gaia truyền phán những lời sấm ngôn cho những người trần đoản mệnh để họ có thể đoán định được tương lai, biết cách hành động và cư xử cho đúng với ý muốn của các vị thần.
Apôlông bay tới Denphơ. Từ trên cỗ xe chàng đứng, ánh sáng tỏa ra ngời ngời, ánh sáng từ chiếc mũ vàng của chàng, ánh sáng từ cây cung bạc và những mũi tên vàng. Cỗ xe của chàng lượn một vòng trên bầu trời rồi hạ cánh xuống một ngọn núi, trước hang ổ của Pithôn. Vừa bước tới cửa hang Apôlông đã cảm thấy khó chịu vì khí lạnh từ lòng hang bốc ra. Chàng lần bước đi vào lòng hang sâu hun hút, tối đen mịt mùng. Đi chưa được bao xa, chàng bỗng nghe thấy tiếng chuyển động ầm ầm và từ đáy hang sâu thẳm bốc lên một mùi tanh kinh tởm hết chỗ nói, tưởng có thể làm đảo lộn cả ruột gan. Apôlông biết ngay là Pithôn đang bò ra khỏi hang để tìm kiếm thức ăn. Chàng lập tức thoát ra khỏi hang, tìm một chỗ thuận lợi để nấp mình, đón quái vật đi tới. Pithôn ra khỏi hang và trườn tới thung lũng phía trước. Thân hình khổng lồ của nó với những vẩy cứng, băng qua những tảng đá lởm chởm làm đá vỡ ra hoặc bị xô đẩy lăn đi ầm ầm. Một làn gió cuốn theo cát bụi mù mịt, thổi ào ạt vào cây cối như trời đang nổi cơn giông. Pithôn quăng mình vào chỗ nào là chỗ đó cây cối gãy răng rắc, nhà cửa đổ, đất bằng lún xuống thành hồ ao. Chim chóc, thú vật sợ hãi nháo nhác gọi nhau chạy trốn. Ngay đến các tiên nữ Nimphơ, những tiên nữ của rừng xanh, đồng nội, núi non sông suối, con của thần Dớt, cũng phải bỏ chạy.
Nhưng có một người con của Dớt không bỏ chạy mà lại tiến đến đương đầu với Pithôn. Đó là vị thần Apôlông vĩ đại, uy nghiêm. Nhìn thấy Apôlông, Pithôn vươn chiếc cổ dài ngoẵng ra, mắt quắc lên xanh lè, mồm há hốc với những hàm răng sắc nhọn để phóng ra chiếc lưỡi dài đỏ như lửa, hòng vơ liếm ngay được đối thủ vào trong mồm. Nhưng không may cho con mãng xà kinh tởm này, Apôlông đứng ngoài tầm phóng của chiếc lưỡi lửa của nó. Và khi nó vừa thu lưỡi về chưa kịp lấy đà phóng tiếp một đòn nữa thì dây cung bạc đã bật lên một tiếng khô gọn, một mũi tên vàng rít lên trong gió cắm phập vào đầu Pithôn. Rồi tiếp những mũi tên thứ hai, thứ ba... liên tiếp cắm vào thân hình đầy vẩy cứng của con quái vật. Pithôn đau đớn trườn mình, quay đầu bỏ chạy. Apôlông đuổi theo cho đến tận ngôi đền thờ nữ thần Đất mẹ Gaia để kết liễu được con quái vật, trừ khử được một tai họa cho dân lành, trả thù cho người mẹ kính yêu là nữ thần Lêtô.
Sau khi giết được Pithôn, Apôlông chôn xác quái vật xuống đất đen sâu thẳm và cho dựng lên một ngôi đền thờ lấy tên là đền thờ Denphơ. Nơi đây, những nàng trinh nữ đẹp nhất được tuyển chọn là cô đồng Pithi để lãnh sứ mạng giao tiếp với thần Apôlông, phán truyền những lời sấm ngôn thần thánh. Còn thần ánh sáng Apôlông vì chiến công đó được mang danh hiệu Apôlông Pithien. Apôlông còn đặt lệ cứ bốn năm một lần tổ chức Hội Pithiques để kỷ niệm chiến công diệt trừ con mãng xà Pithôn. Vị thần Apôlông là người bảo trợ cho nghệ thuật và âm nhạc cho nên trong những ngày mở hội chỉ có những ca sĩ, nhà thơ, nhạc sĩ đua tài.
(Trích Apôlông diệt mãng xà Pithôn, Thần thoại Hy Lạp,
Bùi Xuân Mỹ biên soạn, NXB Văn hóa thông tin, 2001, tr.100-103)
THẦN THOẠI MÁN
Thuở hỗn mang chưa có gì được tạo lập chỉ mới có hai đấng cùng thành hình một lượt là Nhiêu Vương (tức Ngọc Hoàng) và Bàn Cồ. Nhiêu Vương có ba trăm sáu con mắt, Bàn Cồ có ba trăm sáu thân hình.
Con mắt bên trái của Nhiêu Vương sinh ra mặt trời (dương), con mắt bên phải sinh ra mặt trăng (âm), đầu làm thành trời, chân làm thành đất. Còn loài người thì do tâm của Bàn Cồ mà sinh ra, trong đó có Bàn Vũ. Bàn Vũ đã giúp vua Trung Hoa dẹp giặc bằng cách hóa thành một con chó đi vào thành giặc, thừa lúc vua giặc đang say rượu, nằm ngủ, nhảy lại cắn chết, rồi chặt đầu mang về. Bàn Vũ được vua Trung Hoa trọng thưởng, cắt đất và gả công chúa thứ ba cho như đã hứa. Bàn Vũ và công chúa sinh ra được sáu trai và sáu gái thành tổ tiên người Mán. Hai vợ chồng Bàn Vũ về ở núi Cối-kê cai quản giang sơn, núi rừng của nhà vua đã cắt cho.
Đến ngày nay người Mán vẫn nhớ mình là con cháu của Cẩu Long (chó rồng), kiêng ăn thịt vật tổ, quần áo phụ nữ thêu dệt các hình ảnh nhắc nhở đến vật tổ, và trong vài bộ lạc Mán, đàn ông còn giữ tục lệ mang tóc kết như đuôi chó để nhớ đến nguồn gốc của bộ tộc.
(Thần thoại Việt Nam - Trung Hoa, Doãn Quốc Sỹ sưu tập và dịch thuật, NXB Sáng tạo, 1970)
Xuân Về
(Nguyễn Bính)
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời1, đôi mắt trong.
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe,
Mưa tạnh giời quang2, nắng mới hoe3
Lá nõn, nhành non ai tráng bạc?
Gió về từng trận, gió bay đi…
Thong thả, dân gian nghỉ việc đồng,
Lúa thì con gái4 mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng.
Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam vô5.
(Trích Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh- Hoài Chân, NXB Văn học, tái bản 2022)
* Nguyễn Bính (1918-1966) quê gốc ở tỉnh Nam Định. Ông làm thơ năm 13 tuổi, là một trong những gương mặt tiêu biểu của Phong trào Thơ Mới 1932-1945. Nguyễn Bính được coi là “thi sĩ của đồng quê”. Thơ ông mang đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương, đất nước, tình người đằm thắm, thiết tha cùng lối ví von mộc mạc, duyên dáng, mang phong vị dân gian.
* Bài thơ Xuân về trích trong tập Tâm hồn tôi(1940) là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Bính.
1Giời: trời
2Giời quang: bầu trời sau cơn mưa, sáng sủa, quang đãng.
3 Nắng mới hoe: Nắng mới màu vàng nhạt
4Lúa thì con gái: cây lúa sắp ra đòng, trổ đòng( đòng: cơ quan sinh sản của cây lúa sẽ phát triển thành bông, thành hoa và thành hạt).
5Nam vô: câu niệm của Phật giáo “Nam mô A Di Đà Phật”.
GIÓ LẠNH CHIỀU ĐÔNG
Gió lạnh chiều đông nhớ tuổi thơ
Bầy chim chèo bẻo, nấp bên bờ
Mênh mông nước bạc đồng sau gặt
Một nỗi buồn xa như sóng xô.
Chim ở đâu về sà chớp mắt
Chim vương nhựa chết, hết bay rồi
Bắt chim nghe lạnh hai đầu cánh
Tưởng mặt trời se rụng đến nơi.
Tuổi nhỏ hắt hiu giữa cánh đồng
Nửa tràn sương núi, nửa hơi sông
Có gì ẩm ướt trong hồi tưởng
Như áo ngày mưa bặn bếp hong.
Gió lạnh chiều đông xui nhớ thuở
Bầy chim chèo bẻo nấp bên bờ
Hôm nay ta nấp, thơ giăng lưới
Bẫy tháng năm về, bắt tuổi thơ.
(Trích trong tập thơ “Hạt lại gieo”, Huy Cận, NXB Văn học, 1984)
BÀI CA ĐÊM VƯỢT LỘ
(Anh Ngọc)
Ngồi lại dây trước lúc vượt qua đường
Trong ánh chiều một ngày hè sắp tắt
Đừng sốt ruột vì đường còn bóng giặc
Cứ yên lòng đêm nay ta sẽ qua.
Hãy nghe chiều nhẹ xuống trong lòng ta
Với xao xác bầy chim bay về tổ
Trong đáy mắt những người chờ vượt lộ
Ngôi sao chiều đã mọc phía quê hương.
Ngồi lại đây trên cỏ ướt hơi sương
Giọt nắng cuối cùng lung linh hình nốt nhạc
Nhìn môi bạn gọi thầm lên tiếng hát
Một giọng trầm giao cảm dọc hành quân.
Đêm râm ran tiếng bọn địch rất gần
Vòng tay mở ôm choàng vai bè bạn
Giọt mồ hôi cứ se dần thanh thản
Đêm dịu dàng nếp trán tỏa bình yên.
Ngồi lại đây trong nỗi nhớ niềm quên
Bao giấc mơ của một thời đánh giặc
Chỉ còn lại một giấc mơ duy nhất
Những bàn chân bật dậy vượt qua đường.
(Anh Ngọc, Gửi lại thời gian. NXB Văn học, 2008)
BẾN ĐÒ ĐÊM TRĂNG
Mây tản mát ven trời trôi đón gió
Sao mơ hồ thưa bóng lẩn trong sương.
Sông lặng chảy một nguồn trăng sáng tỏ.
Bóng cô Hằng lơ lửng đứng soi gương.
Trên bến vắng chòm si ôm bực đá,
Bờ đê cao không một bóng in người,
Gió se sẽ bước vào thăm khóm lá
Trước quán hàng vắng lặng bóng trăng soi.
Ngoài sông nước đó đây về chở gió
Thuyền lênh đênh trong lớp khói sương mù
Ngồi mơ mộng đầu thuyền cô lái nhỏ
Khua trăng vàng trong nhịp hát đò đưa.
(Anh Thơ, Bức tranh quê, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995, tr. 40)
TỔ QUỐC NHÌN TỪ BIỂN
[1] Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa.
[2] Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn.
[3] Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
Trong hồn người có ngọn sóng nào không?
(Tổ quốc nhìn từ biển – Nguyễn Việt Chiến)
TỰ TÌNH (bài 1)
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom(1),
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ(2) thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông(3) sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân(4) ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom(5)!
Hồ Xuân Hương
(Thơ Hồ Xuân Hương, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Chú thích:
(1) Bom: phần phía sau con thuyền, nơi người dân chài thường nuôi nhốt gà.
(2), (3) Mõ, Chuông: Mõ và chuông dùng trong nhà chùa có tác dụng làm nguôi dịu lòng người. Ở đây, nhà thơ vận dụng khác. Mõ thảm, chuông sầu: tiếng lòng sầu thảm trong đêm khuya vắng lặng không khua, không đánh mà vẫn vang lên dữ dội những âm thanh khô khốc, ầm ĩ, cốc như mõ và om như chuông.
(4)Tài từ: người có tài và sống phóng khoáng. Văn nhân: người có học và có tài văn chương.
(5) Già tom: như già nhom, chỉ già nua, gầy nhom.
Thuật hứng bài 3
Một cày một cuốc thú nhà quê,
Áng cúc lan chen vãi đậu kê.
Khách đến chim mừng hoa xẩy rụng,(1)
Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về.(2)
Bá Di người rặng(3) thanh là thú,
Nhan Tử(4) ta xem ngặt ấy lề.
Hễ tiếng dữ lành tai quản đắp,(5)
Cầu ai khen liễn lệ(6) ai chê.
(Nguyễn Trãi)
(1) Xảy rụng: Tiếng chim kêu khiến hoa chợt động mà rụng.
(2)Chè tiên: Đun nước pha trà ;
Ghín nước: gánh nước.
Nguyệt đeo về: ý nói gánh nước mang theo cả ánh trăng chiếu vào về.
(3) Bá Di: người đời khen là người cao khiết.
Người rặng: Người bảo rằng
(4) Nhan tử: Nhan Uyên là học trò giỏi của Khổng Tử, nhà nghèo nhưng học giỏi.
(5) Tai quản đắp: Bịt tai không nghe
(6) Liễn: lẫn ; Lệ: sợ
THỦ VĨ NGÂM(1)
Góc thành Nam, lều một gian,
No nước uống, thiếu cơm ăn.
Con đòi chốn, dường ai quyến;
Bà ngựa(2) gầy, thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá(3);
Nhà quen xú xứa, ngại nuôi vằn(4)
Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải;
Góc thành Nam, lều một gian.
(Thơ Nôm Đường luật- Lã Nhâm Thìn- NXB Giáo dục 1998, trang 233)
* Chú thích:
(1). Bài này có thể được làm trong lúc Nguyễn Trãi bị giam lỏng ở Đông Quan hay trong lúc ông bị Lê Thái Tổ ruồng bỏ sau khi bị giam vì bị nghi có liên quan đến vụ án Trần Nguyên Hãn, tuy được tha và vẫn giữ chức quan nhưng không được làm việc gì.
(2). Bà ngựa: Con ngựa
(3). Vì ao hẹp nên khó thả cá
(4). Xú xứa: Xuề xòa, xuềnh xoàng.
“Vằn”: chó vằn, con chó.
Bảo kính cảnh giới (Bài 21)
Ở bầu thì dáng ắt nên tròn.
Xấu tốt đều thì rắp khuôn.
Lân cận nhà giàu no bữa cám (1);
Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn (2).
Chơi cùng bầy dại nên bầy dại;
Kết mấy người khôn học nết khôn.
Ở đấng thấp thì nên đấng thấp.
Đen gần mực đỏ gần son.
(Theo Nguyễn Trãi toàn tập - Đào Duy Anh dịch)
Chú thích:
(1) và (2): Hai câu này là do câu tục ngữ “ở gần nhà giàu đau răng ăn cốm, ở gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn”. Chữ “đau răng ăn cốm” là đúng chữ câu tục ngữ. Nhưng kẻ ở gần nhà giàu mà được ăn cốm nhiều thì cũng lạ. Chúng tôi cho rằng chính là cám nói chệch đi cho hợp với vần trộm ở câu dưới mà thành cốm… mà ở gần nhà giàu được no bữa cám thì nghĩa mới thông.
CHAT GPT
Thời gian qua, sự xuất hiện của công cụ trí tuệ nhân tạo (AI) có tên ChatGPT (tên gọi đầy đủ là Chat Generative Pre-training Transformer) - một chatbot do công ty khởi nghiệp OpenAI phát triển đã làm giới công nghệ quan tâm dùng thử. Điểm đặc biệt của công cụ này là có kho kiến thức mà ChatGPT đã học được trong một thời gian dài để hoàn thiện.
Công cụ thông minh nhất thế giới
Được biết, ứng dụng Chat GPT (chatbot) được mệnh danh là trí tuệ nhân tạo (AI) thông minh nhất thế giới. Công cụ này có thể trò chuyện, trả lời lưu loát đầy đủ các câu hỏi mà bạn đưa ra, bất kể là thắc mắc về lĩnh vực gì. Khi Chat GPT ra mắt, người sử dụng muốn tra cứu đã bắt đầu trò chuyện với công cụ này thay vì tìm kiếm thông tin trên google. Với sự hiểu biết trong nhiều lĩnh vực, các câu hỏi thắc mắc của người sử dụng đã được trả lời chỉ sau vài giây.
[…]
Có phải một bước ngoặt về công nghệ?
Việc Chat GPT ra mắt hồi tháng 11-2022 hoàn toàn có khả năng sẽ được ghi nhớ như một bước ngoặt trong việc giới thiệu một làn sóng trí tuệ nhân tạo mới tới công chúng rộng rãi hơn. Điều chưa rõ là liệu Chat GPT có thực sự là một bước đột phá hay không khi một số nhà khoa học chỉ trích gọi đây là một động thái truyền thông xuất sắc đã giúp công ty OpenAI thu được hàng tỷ USD đầu tư từ Microsoft.
Nhà khoa học AI tại Meta Yann LeCun, nhà khoa học AI tại Meta và giáo sư tại Đại học New York cho rằng: Chat GPT không phải là một tiến bộ khoa học đặc biệt thú vị và gọi ứng dụng này là “bản thử nghiệm hào nhoáng” do các kỹ sư xây dựng. Trong khi đó, chuyên gia Haomiao Huang của Kleiner Perkins, công ty đầu tư mạo hiểm ở Thung lũng Silicon, cảnh báo trên trang tin công nghệ Ars Technica: Khi làm việc với các mô hình AI này, bạn phải nhớ rằng chúng là máy đánh bạc chứ không phải máy tính. Còn Jason Davis, giáo sư nghiên cứu tại Đại học Syracuse, khẳng định cuộc cách mạng thực sự chính là tạo ra cuộc trò chuyện như giữa người với người. Davis nói: Mô hình đó rất quen thuộc, nó giống như một cuộc trò chuyện và giống như việc đưa ra một yêu cầu tìm kiếm trên google.
[…]
Cách tạo tài khoản Chat GPT
Các bước chuẩn bị để tạo tài khoản Chat GPT:
- Một địa chỉ email (nên sử dụng Gmail vì mức độ phổ biến cũng như dễ tạo mới, thao tác).
- Chương trình mở rộng trên trình duyệt web để đổi VPN (mạng riêng ảo), ví dụ TunnelBear trên Google Chrome.
- Số điện thoại tại nước ngoài để nhận tin nhắn chứa mã kích hoạt
Nếu tạo tài khoản Chat GPT ở Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn vì bắt buộc phải có số điện thoại tại nước ngoài để nhận tin nhắn chứa mã kích hoạt.
(Văn Phong tổng hợp, nguồn: Báo Quân đội nhân dân)
THỜ CÚNG TỔ TIÊN – NÉT ĐẸP VĂN HÓA CỦA NGƯỜI VIỆT
Thờ tổ tiên là một nét đẹp văn hóa của người Việt xưa và nay. Bàn thờ tổ tiên là một phần không thể thiếu trong mỗi gia đình, không kể giàu nghèo hay địa vị xã hội.
Tục thờ cúng tổ tiên của người Việt có nguồn gốc từ nền kinh tế nông nghiệp trong xã hội phụ quyền xưa. Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam, chữ hiếu được đề cao, đã làm cho tục thờ cúng tổ tiên có một nền tảng triết lý sâu sắc. Gia đình, gia tộc, và vấn đề "dương danh hiển gia" được đề cao.
Không nhất thiết phải là mâm cao cỗ đầy, chỉ cần một nén hương (nhang) lên bàn thờ tổ tiên trong ngày lễ, Tết, hay ngày giỗ, con cháu trong gia đình cũng thể hiện được tấm lòng thành kính, hướng về cội nguồn, tưởng nhớ những người thân đã khuất.
Từ lâu, thờ cúng tổ tiên ông bà đã trở thành một phong tục, là chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc làm người; đồng thời là một phần quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt Nam. Dân Việt trọng lễ nghĩa, hiếu thảo với cha mẹ và có hiếu với ông bà tổ tiên, với nguồn gốc của mình.
Trên bàn thờ tổ tiên, ở chính giữa đặt bát hương (tượng trưng cho tinh tú) và trên bát hương có cây trụ để cắm hương vòng (tượng trưng cho trục vũ trụ); ở hai góc ngoài bao giờ cũng có hai cây đèn (hoặc nến) tượng trưng cho Mặt Trời ở bên trái và Mặt Trăng ở bên phải. Khi cần giao tiếp với tổ tiên (có lúc thỉnh cầu, có khi sám hối…) người ta thường đốt nến (đèn dầu) và thắp hương. Mọi nguyện cầu theo các vòng khói hương chuyển đến ông bà tổ tiên.
Đặc trưng của văn hóa nông nghiệp cũng được thể hiện ở trên bàn thờ tổ tiên của người Việt. Thông thường, ở ngay sau bát hương thường có một cái đỉnh ba chân, nắp đỉnh được vẽ hình con lân với ý nghĩa sức mạnh bề trên kiểm soát tinh thần con cháu khi đứng trước bàn thờ.
Bàn thờ tổ tiên luôn cần được thanh tịnh. Vì thế, đồ tế lễ chỉ có thể là hương, hoa, trà, quả… Những ngày giỗ, Tết, con cháu muốn dâng cúng cỗ mặn phải đặt ở một chiếc bàn phụ phía trước và thấp hơn bàn thờ chính.
Hướng bàn thờ cũng được người Việt rất quan tâm. Thông thường hướng nhà theo đạo Phật thì hướng Nam là nơi của bát nhã, tức trí tuệ, hướng của sự sáng tạo, của sinh lực tràn trề, đầy dương khí.
Nhiều khi cũng đặt bàn thờ hướng Tây vì người ta nghĩ hướng này hợp với sự đối đãi của âm dương, nên yên ổn và phát triển, nghĩa là vị thần được an tọa.
(Theo Thúy Hằng, nguồn: https://melinh.hanoi.gov.vn/)
NGƯỜI THẦY THÀNH LẬP NGÔI TRƯỜNG ĐẦU TIÊN
TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI
Plato - nhà triết học thời Hy Lạp cổ đại – là người sáng lập Academy, nơi được coi là ngôi trường đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Ông cũng là người viết những tác phẩm triết học có ảnh hưởng lớn tới hệ tư tưởng phương Tây. Plato là người thành lập Academy ở Athens – một trong những ngôi trường đầu tiên của thế giới phương Tây. Ông qua đời tại Athens vào khoảng năm 348 TCN.
Thời trẻ
Khi còn trẻ, Plato trải qua 2 sự kiện lớn trong đời. Một là sự gặp gỡ với triết gia vĩ đại Socrates. Phương pháp đối thoại và tranh biện của Socrates khiến Plato ấn tượng đến mức không lâu sau ông trở thành một cộng sự thân thiết và dành cả cuộc đời mình cho các vấn đề về đức hạnh và sự hình thành nhân cách cao thượng. Một sự kiện quan trọng khác trong cuộc đời ông là cuộc chiến Peloponnesus giữa Athens và Sparta, mà Plato đã chiến đấu trong một thời gian ngắn từ năm 409-404 TCN. Sự thất bại của Athens chấm dứt chế độ dân chủ và bị Sparta thay thế bằng chế độ chuyên chế độc tài. Hai người thân của Plato là Charmides và Critias là những nhân vật nổi bật trong chính quyền mới.
Sau khi chính quyền độc tài bị lật đổ và chế độ dân chủ được khôi phục lại, Plato có một thời gian ngắn làm công việc chính trị. Tuy nhiên, bản án tử hình với người thầy Socrates vào năm 399 TCN khiến ông băn khoăn với công việc này và quay trở lại với cuộc sống nghiên cứu triết học.
Thành lập Academy
Vào khoảng năm 385 TCN, Plato thành lập một trường học được gọi là Academy – nơi mà ông là người chủ trì cho tới tận khi qua đời.
Academy hoạt động cho đến năm 529 sau Công Nguyên, khi nó bị đóng cửa bởi Hoàng đế La Mã Justinian I – người lo sợ rằng ngôi trường là nguồn gốc của chủ nghĩa ngoại giáo và là một mối đe dọa với Cơ đốc giáo.
Trong những năm hoạt động, chương trình giảng dạy của trường gồm có thiên văn học, sinh học, toán học, lý thuyết chính trị và triết học. Plato hy vọng rằng Academy sẽ là nơi để các nhà lãnh đạo tương lai khám phá ra cách xây dựng một chính quyền tốt hơn cho các thành bang Hy Lạp.
Vị trí của Plato trong lịch sử
Plato cùng với Academy đã tạo ra sự ảnh hưởng lâu dài tới bản chất con người, vượt ra phạm vi của Hy Lạp cổ đại. Niềm tin của ông về tầm quan trọng của toán học trong giáo dục đã được chứng minh là cần thiết cho việc hiểu về toàn bộ vũ trụ. Những tác phẩm của ông về việc sử dụng lý trí để phát triển một xã hội công bằng hơn, tập trung vào sự bình đẳng của các cá nhân đã thiết lập một nền tảng cho nền dân chủ hiện đại.
(Theo VietNamNet)
(1) Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.
(2 )Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời.
(3)Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?
(Trích “Chiếu cầu hiền” (*) - Ngô Thì Nhậm)
Chú thích
Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung do Ngô thì Nhậm viết thay vào khoảng năm 1788-1789, nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.
LẮNG NGHE LÀ MỘT BIỂU HIỆN CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG
(Hae Min)
(1) Trong cuộc sống chắc hẳn có những lúc bạn gặp khó khăn và muốn được chia sẻ cùng ai đó? Những lúc như thế bạn thường tìm đến ai? Những người có năng lực và giỏi phán đoán hơn bạn hay những người biết lắng nghe câu chuyện của bạn? Tôi thường chọn tìm đến những người bạn ở vế thứ hai hơn. Dĩ nhiên khi trò chuyện với người có năng lực và giỏi phán đoán, họ sẽ giúp tôi chỉ ra vấn đề của mình một cách khách quan nhất. Nhưng khi thực sự gặp chuyện khó khăn, tôi vẫn cảm thấy thiêu thiếu 2% gì đó khi chỉ ngồi nghe những lời khuyên lý tính. Có thể vì khi gặp khó khăn, thay vì nghe những lời khuyên đúng đắn, tôi chỉ muốn có ai đó lắng nghe và hiểu cho tâm trạng của mình mà thôi.
(2) […] Chỉ cần có ai đó, như một tấm gương soi tỏ, thấu hiểu những gì đang khiến ta mệt mỏi là đủ để đem tới cho ta nguồn an ủi to lớn rồi. Không những thế, những đau khổ ta đang chịu đựng cũng bỗng trở nên ý nghĩa hơn. Nếu người đang lắng nghe ta nói rằng họ đã từng gặp chuyện mà ta tưởng chỉ riêng mình gặp phải, ta sẽ cảm thấy rằng đó là chuyện có thể xảy đến với bất kỳ ai và nhờ thế dễ dàng tiếp nhận hoàn cảnh hiện tại hơn. Lắng nghe chính là xuất phát điểm của sự đồng cảm và cũng là nền tảng của sự chữa lành.
(3) Là một nhà sư đồng thời là một học giả, đã không ít lần tôi giảng Pháp môn và những chủ đề khác trước nhiều người. Nhiều lúc tôi gặp những thính giả vui vẻ cười đáp lại chuyện đùa nhạt nhẽo của mình hoặc có những phản ứng khiến tôi hứng thú trong suốt buổi giảng, ngược lại cũng đôi khi tôi gặp những thính giả cứng nhắc, khiến bầu không khí chùng xuống. Dù nói cùng một nội dung, nếu không có phản ứng từ người nghe, người nói sẽ cảm thấy mất sức hơn bình thường gấp hai ba lần. Nhờ có những người chăm chú lắng nghe ta nói như nghe tiếng nước bình đạm chảy mà câu chuyện của ta sẽ trở nên thông suốt và bầu không khí cũng vui vẻ hơn. Ngược lại nếu đối phương chỉ như một bức tường im lìm không phản ứng gì, lời ta nói sẽ trở nên vô nghĩa, và chính bản thân ta cũng bắt đầu thu mình lại. Bởi vậy, chân thành lắng nghe người khác chính là cách bộc lộ sự quan tâm, nhường nhịn và tình yêu thương cụ thể, năng động nhất.
(4) Đã từng có lúc tôi thắc mắc không hiểu tại sao người ta sử dụng các mạng xã hội như Twitter, Facebook, Kakao Story… bất kể ngày đêm như thế. Tôi đã không thể hiểu được lý do tại sao dù không ai bắt ép nhưng mọi người vẫn chia sẻ hình ảnh, suy nghĩ, những việc mình làm trong ngày với cả thế gian. Có lẽ vì chúng ta vẫn hằng mong sẽ có ai đó trên mạng lắng nghe câu chuyện của mình. Phải như vậy ta mới cảm thấy hành động của mình có ý nghĩa và sự tồn tại của mình có giá trị. Cảm giác mệt mỏi vì phải sống từng ngày từng ngày không chút ý nghĩa, như phải đứng trên một sân khấu không khán giả không ai quan tâm, cũng sẽ được xóa nhòa.
(5) Hãy nhìn xung quanh xem có người thân hay bạn bè nào của bạn đang gặp khó khăn hay không. Cho dù bạn không biết cách giải quyết những vấn đề của họ đi chăng nữa, họ cũng sẽ rất biết ơn nếu bạn thật lòng lắng nghe câu chuyện của họ đấy.
(Trích Yêu những điều không hoàn hảo, Hae Min, trang 110 – 113, NXB Thế Giới, 2022)