Đề bài

Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

THU VỊNH

Nguyễn Khuyến

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tầng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

(In trong Nguyễn Khuyến – Tác phẩm chọn lọc, Lại Văn Hùng (giới thiệu và tuyển chọn), NXB Giáo dục, 2009)

a.Xác định bố cục của bài thơ.

b. Bài thơ được làm theo luật bằng hay luật trắc? Làm rõ bài thơ đã tuân thủ quy định về luật, niêm, vần, đối của thể thơ thất ngôn bát cú luật Đường bằng cách điền vào bảng sau (làm vào vở):

Luật

 

Niêm

 

Vần

 

Đối

 

c. Cảnh mùa thu được thể hiện ra sao qua sáu câu thơ đầu? Khung cảnh ấy góp phần thể hiện tình cảm, cảm xúc gì của tác giả?

d. Trong các cặp câu 3 - 4, 5 – 6, tác giả đã sử dụng những biện pháp tu từ nào? Nêu tác dụng của chúng.

e. Bài thơ được ngắt nhịp như thế nào? Nhận xét về cách ngắt nhịp đó.

Em hiểu gì về hai câu thơ cuối? Theo em, cảm xúc của tác giả ở hai câu thơ này có sự thay đổi ra sao so với các câu thơ trên?

f. Cho biết cảm hứng chủ đạo của bài thơ.

Phương pháp giải

Xác định từ khóa của các câu hỏi kết hợp cùng việc phân tích hình ảnh, chi tiết thơ để có thể hoàn thiện những yêu cầu mà đề bài đưa ra.

Lời giải của GV Loigiaihay.com

a. Bố cục bốn phần: đề - thực – luận – kết.

- Đề (câu 1,2): bức tranh mùa thu qua hình ảnh trời thucần trúc (thời điểm ban trưa).

- Thực (câu 3,4): bức tranh mùa thu qua hình ảnh nước biếc bóng trăng (thời điểm hoàng hôn và dần chuyển vào đêm).

- Luận (câu 5,6): Hình ảnh hoa và âm thanh tiếng ngỗng mùa thu gián tiếp bộc lộ tâm sự lo lắng thầm kín của tác giả trước cảnh mất nước.

- Kết (Câu 7,8): cảm hứng muốn làm thơ và nỗi tủi thẹn với “ông Đào” của nhà thơ.

Bài thơ cũng có thể được phân theo bố cục bốn câu đầu – bốn câu cuối, trong đó bốn câu đầu chủ yếu tả cảnh mùa thu, bốn câu sau chủ yếu thể hiện tâm tư, tình cảm của tác giả.

b. Bài thơ được làm theo luật bằng vần bằng.

Luật

Luật bằng vì tiếng thứ hai của câu 1 là tiếng thanh bằng (thu).

Niêm

Tiếng thứ hai của câu 1 niêm với tiếng thứ hai của câu 8, tiếng thứ hai của câu 2 niêm với tiếng thứ hai của câu 3, tiếng thứ hai của câu 4 niêm với tiếng thứ hai của câu 5, tiếng thứ hai của câu 6 niêm với tiếng thứ hai của câu 7.

Vần

Chỉ hiệp theo một vần là vần bằng, gieo ở cuối câu 1 (cao) và các câu chẵn là 4,6,8 (vào – nào – Đào).

Đối

Câu thứ ba đối với câu thứ tư, câu thư năm đối với câu thứ sáu.

c. Cảnh mùa thu trong sáu câu thơ đầu được thể hiện qua:

- Từ ngữ: xanh ngắt, tầng cao, lơ phơ, hắt hiu,….

- Hình ảnh: trời thu, cần trúc, nước biếc, song thưa, bóng trăng, hoa,…

→ Bức tranh mùa thu trong sáu câu thơ đầu của bài Thu vịnh là một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng tĩnh lặng; cảnh vật hiện lên trong trẻo, sống động; màu sắc và âm thanh hài hòa, mang nét thanh sơ, dịu nhẹ đặc trưng của mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ.

→ Khung cảnh ấy góp phần thể hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả: Khung cảnh thiên nhiên đẹp nhưng tĩnh lặng góp phần thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên, tâm trạng u buồn man mác, trĩu nặng suy tư về vận nước của người ngắm cảnh.

d. - Trong cặp câu 3 – 4, tác giả đã sử dụng những biện pháp tu từ so sánh (nước biếc – tầng khói phủ) để tăng giá trị biểu cảm và biện pháp đối (nước biếc >< song thưa, trông như >< để mặc, tầng khói phủ >< bóng trăng vào) để tạo nhịp điệu cân xứng cho câu thơ.

- Trong cặp câu 5 – 6, tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ (mấy chùm hoa và một tiếng ngỗng) nhằm nhấn mạnh hình ảnh và phép đối (mấy chìm >< một tiếng, trước giậu >< trên không, hoa năm ngoái >< ngỗng nước nào) để làm tăng giá trị biểu cảm và tạo nhịp cân xứng cho câu thơ.

e. Bài thơ được ngắt theo nhịp 4/3 (đề, luận) và 2/2/3 (thực, kết). Đây là cách ngắt nhịp truyền thống của thơ thất ngôn bát cú luật Đường.

f. Hai câu thơ cuối thể hiện nỗi thẹn với “ông Đào” của Nguyễn Khuyến. “Ông Đào” tức là Đào Tiềm, một danh sĩ đồng thời là một nhà thơ nổi tiếng đời Tấn (Trung Quốc), đã treo ấn từ quan, về sống với ruộng vườn, với cỏ cây, hoa lá để giữ vững khí tiết. Bằng cách sử dụng điển tích này, Nguyễn Khuyến ngầm so sánh mình kém “ông Đào” về tài năng, khí phách và nhân cách. Cụ thể, Nguyễn Khuyến từ quan khi đã 50 tuổi (trễ hơn Đào Tiềm) và ân hận vì mình đã từng tham gia vào guồng máy chính trị thối nát, bạo ngược đương thời. Tuy nhiên, cũng có thể hiểu “thẹn với ông Đào” là một cách nói bộc lộ tấm lòng yêu nước, nhân cách thanh cao của nhà thơ.

- Cảm xúc ở hai câu này có sự thay đổi so với sáu câu trên: từ say đắm với cảnh sắc mùa thu tươi đẹp; đến tiếc nuối, ngỡ ngàng, lo lắng trước tình cảnh mất nước; nỗi xót xa, tủi thẹn cho bản thân không bằng được với khí phách của “ông Đào”.

g. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ: nỗi buồn của người dân mất nước, sống trong thời thế loạn lạc; cảm giác bất lực vì không thể làm gì cho dân, cho nước; nỗi xót xa, tủi thẹn vì mình không có khí tiết mạnh mẽ và cao cả như ông Đào Tiềm.

Các bài tập cùng chuyên đề

Bài 1 :

Thơ sáu chữ, bảy chữ là thể thơ như thế nào?

Xem lời giải >>
Bài 2 :

Hãy nêu điểm giống và khác nhau giữa thơ sáu chữ và thơ bảy chữ.

Xem lời giải >>
Bài 3 :

Nối khái niệm ở cột A với đặc điểm tương ứng ở cột B:

Xem lời giải >>
Bài 4 :

Vần liền, vần cách nằm trong nhóm vần chân hay vần lưng?

Xem lời giải >>
Bài 5 :

Hãy xác định bố cục của bài thơ Mây và sóng (Ta-go). Từ đó, xác định cảm hứng chủ đạo của bài thơ này.

Xem lời giải >>
Bài 6 :

Trong khổ thơ sau, nhà thơ đã sử dụng loại vần nào?

“Đầu những hồn thân tự thuở xưa

Những hồn quen dài gió dầm mưa

Những hỗn chất phác hiện như đất

Khoai sẵn tinh quê rất thiệt thà.”

(Tố Hữu, Nhớ đồng)

Xem lời giải >>
Bài 7 :

Đọc VB sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

 CHÍN CON RỒNG NHỎ BAY LÊN

Trần Quốc Toàn

Ghe ngon vừa nghe trống lện

Vẫy gió một trăm khăn hồng

Một trăm mái chèo khuấy nước

Bay lên chín con sông rồng.

Bay lên sông mẹ nghìn giọt

Đi tìm Sóc Trăng đồng chua

Đi tìm Trà Vinh đất khát

Chúng em thay trời làm mưa.

 

Giọt giọt mồ hôi mặn chát.

Đã ngọt trong cơn mưa vui

Mái dầm thiếu nhi thọc lét

Sông cười sóng reo thành lời.

Sáng nay ghe ngo vào hội

Mặt sông Cửu Long sáng ngời

Nhịp xuân tay đua gắng gỏi

Ghe ngo nối đất với trời...

(In trong Bữa tiệc của loài vật, NXB Giáo dục Việt Nam, 2008)

Xem lời giải >>
Bài 8 :

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

VỚI CON

Vũ Quần Phương

1. Bồng bồng!

   Bố bồng con trên tay

   Buổi chiều nay, buổi chiều nay

   Khói hàng xóm bay là trên bếp

   Sau trận mưa trời mát hơi may.

 

2. Bố bế con ra ngoài mái hiên

    Sông xa, trời rộng, mắt con nhìn

    Cánh buồm trôi đấy, mây bay đấy!

    Cây giữa vườn cây, cỏ trước thềm.

 

3. Bố bế con ra với phố phường

   Xe chạy người đi như nước tuôn

   Cây xanh, ngói đỏ, con đừng lạ

   Muối mặn, gừng cay, hoa trái thơm.

 

4. Bố bế con ra với cuộc đời

    Con ơi yêu lấy mặt con người

    Tươi như quả chín, hồng như thắp

    Sau nét âu lo, vẫn nét cười.

 

5. Bố nhấc con lên, bố nhấc lên

    Dâng qua vai bố để con nhìn

    Mai sau thành bạn đi cùng bố

    Đường rộng trời ta xa mãi thêm.

(In trong Tác phẩm văn học được giải thưởng nhà nước, Hoa trong cây, Những điều cùng đến, Vết thời gian, NXB Hội Nhà văn, 2014)

Xem lời giải >>
Bài 9 :

Vẽ sơ đồ tóm tắt luật, niêm, vần, nhịp, đối của thơ thất ngôn bát cú và thơ tứ tuyệt luật Đường.

Xem lời giải >>
Bài 10 :

Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi bên dưới:

MỜI TRẦU

Hồ Xuân Hương

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Đừng xanh như lá, bạc như vôi

(In trong Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 14, NXB Khoa học xã hội, 2000)

a. Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào?

b. Bài thơ được làm theo luật bằng hay luật trắc?

c. Chỉ ra bài thơ đã tuân thủ luật, niêm, vần, đối của thể thơ như thế nào (kẻ và hoàn thành bảng sau vào vở):

Luật

 

Niêm

 

Vần

 

Đối

 

 d. Nhận xét về cách ngắt nhịp của bài thơ.

đ. Xác định bố cục của bài thơ.

e. Những từ ngữ, hình ảnh nào trong bài thơ thể hiện được tình cảm, cảm xúc của người viết?

g. Cho biết cảm hứng chủ đạo của bài thơ.

Xem lời giải >>
Bài 11 :

Tư tưởng của tác phẩm văn học được biểu hiện qua những yếu tố nào?

a. Nhân vật chính, người kể chuyện, đề tài, chủ đề,…

b. Đề tài, chủ đề, nhân vật,….

c. Hình tượng nghệ thuật, đề tài, chủ đề, cảm hứng nhân đạo,….

d. Hình tượng nghệ thuật, nhân vật, cảm hứng chủ đạo,….

Xem lời giải >>
Bài 12 :

Đọc đoạn trích sau và liệt kê những chi tiết miêu tả lời nói, thái độ, hành động của nhân vật Xa-vu-skin, chọn phân tích một chi tiết mà em thích nhất:

Cô An-na Va-xi-li-ép-na, cô nhìn xem này!

Nó gắng sức vần một tảng tuyết bên dưới bết những đất cùng với đám cỏ mục nát vẫn còn sót lại. Ở đây, trong một cái hố, có một cục tròn bọc trong những tấm lá đã mủn nát mỏng dính như mạng nhện. Qua lớp lá thòi ra những đầu kim nhọn hoắt.

An-na Va-xi-li-ép-na đoán ra đấy là con nhím.

-  Nó tự ủ ấm mới khéo chứ! – Xa-vu-skin ân cần đắp cho con nhím tấm chăn mộc mạc của nó. Rồi thằng bé bới tuyết cạnh một khúc rễ khác. Trước mắt là một cái hang nhỏ xíu, trên vòm có những trụ băng rủ xuống như tua viền. Trong hang, một con nhái màu nâu nom như bằng bìa cứng ngồi chồm hổm, làn da căng dính xương bóng như đánh véc-ni, Xa-vu-skin sờ vào con nhái, nó không động đậy.

Vờ vĩnh! – Xa-vu-skin bật cười – Làm như đã chết rồi. Thế mà nắng ấm lên là nó nhảy ngay đi cho mà xem, ôi chao, cứ là như choi choi ấy! Thằng bé tiếp tục đưa An-na Va-xi-li-ép-na đi thăm cái thế giới bé nhỏ của mình.

Dưới gốc sồi còn nhiều khách trọ khác: bọ dừa, thằn lằn, rệp cây. Một sống ẩn kín dưới các nhánh rễ, số khác rúc vào những kẽ vỏ cây. Con nào cũng gầy nhom, dường như bên trong rỗng tuếch, chúng ngủ vùi cho qua mùa đông. Cái cây cường tráng, tràn trề nhựa sống tích tụ quanh nó nhiều sinh lực ấm áp đến nỗi loài thú đáng thương không thể tìm đâu ra căn nhà tốt hơn.

(Iu-ri Na-ghi-bin, Cây sồi mùa đông)

Xem lời giải >>
Bài 13 :

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

TÍ BỤI

Quế Hương

Hồi mới đến ở, nhà tôi cứ tì tì mất dép. Đôi săng đan con mới xó chân ngày mồng một Tết, mồng hai phải đi dép cũ. Anh bạn đến chơi lịch sự cởi giày ở tầm chùi chân trước hiên, ra về chỉ còn đối vớ! Học trò đến thăm có đứa đi chân không về. Tôi than phiền với người hàng xóm, chị ấy bảo: “Thằng Tí bụi chứ ai vô đây. Sư tổ ăn cắp vặt. Cô vô nhà hắn mà chửi." Tôi không biết chửi. Vả lại không bắt quả tang làm sao mà chửi hắn. Thế là tôi bắt đầu cảnh giác. Khi có khách, tôi nhìn chăm chăm ra cổng.

Rồi nhà tôi bỗng xuất hiện một vị khách không mời. Đó là một con chó đen tuyền, gầy gò ngồi chực trước cửa. Ngó bộ dạng chẳng mấy khi được no của hắn tôi thấy thương ném cho mấy mẩu xương. Hôm sau, hắn lại xuất hiện, mắt dán vào tôi. Không cầm lòng được, tôi lại cho ăn. Cứ thế ngày lại ngày, giữa hắn và tôi bỗng hình thành một mối dây buộc chặt. Có xương tôi để dành cho hắn. Đi ăn giỗ ở nhà mẹ tôi cũng nghĩ đến hắn và nhặt cả túi xương về cho hắn. Tôi mở cửa cho hắn vào nhận quà. Hắn nhìn đống xương ứa nước dãi nhưng chưa ăn ngay.

Hắn nằm xoài trước hiện, gối đầu lên hai chân trước thở hắt ra sung sướng như một kẻ được nằm nghỉ trên chiếc giường thân thuộc của mình, mắt vẫn ngủ tôi đợi chờ thực với vuốt ve. Bao giờ ăn hắn cũng chừa lại một mẩu to nhất tha về. Thế rồi một lần hắn đang ăn bỗng có tiếng huýt gió. Lập tức hắn bỏ bữa rồi len lén tha một chiếc dép chạy ra cổng. Thì ra thủ phạm trộm đẹp nhà tôi chính là hắn. Nói đúng hơn là tên huýt gió. Thấy tôi cảnh giác, nó huấn huyện con chó thành tòng phạm.

Hắn vẫn ngồi trước cổng nhà tôi dẫu cổng và cả lòng tôi đã khép. Thấy tôi, hắn vẫy đuôi. Tôi bỏ đi, hắn tru lên thảm thiết. Giận dữ tôi ném chiếc dép còn lại mà hắn đã tha mất một chiếc qua rào nhưng hắn không thèm nhặt. Ném một mẩu xương hắn cũng không buồn ăn. Hắn nhìn tôi và cái cổng đóng chặt như muốn hỏi tại sao không mở cho hắn.

Tôi gặp hắn đi cùng một thằng nhóc ra chợ. Tôi lơ hắn còn hắn chạy đến vẫy đuôi tíu tít mừng tới, "Win, lại đây!" Thằng nhóc gọi. Thì ra hắn tên Win. Còn thằng kia chắc là Tí bụi vì trông hắn rất "bụi" Loắt choắt, bẩn thỉu, ranh ma. Mua xong, ra đến cửa chợ tôi bỗng nghe tiếng chân sầm sập và tiếng la í ới "Trộm... trộm... bắt lấy!". Một con chó đen miệng ngậm tảng thịt lao ra khỏi chợ, ngang qua tôi bỗng dừng lại. Chỉ cần tích tắc khựng lại ấy, người dân theo đằng sau đã kịp quật một gậy. Đau quá hắn khuỵu xuống. Chiếc gậy lại nhằm đầu hắn vụt tới. Tôi kịp thấy đôi mắt hắn nhìn tôi da diết. Không nghĩ, tôi đưa chiếc giỏ thức ăn để đòn cho hắn. Còn cho thoát hiểm gượng dậy lảo đảo chạy tiếp còn tôi ngồi giữa đồng đồ ăn tung tóe với bao câu rủa ráy: Tự nhiên hứng! Chắc là chủ. Ngó thế mà là chủ của con chó ăn cắp! Đền đây! Hơn kí thịt đấy!...

Trưa hôm ấy, một đôi dép phiêu bạt bỗng trở về lại mái nhà xưa!

Từ đó cổng nhà tôi hay mở và con Win vào năm xoài trước tái hiện đầy nắng. Nó ăn, lơ mơ ngủ rồi sực nhớ đến chủ lại tất tả ra về. Thỉnh thoảng tôi gói cái gì đó trong bao ni lông. Con chó thật khôn, thấy đưa bao ni lông là biết ngay quà của chủ, lập tức ngậm ở miệng chạy về. Trong bao ni lông đôi khi còn là mấy chiếc áo cũ. Soạn đồ của con, tôi chính nghĩ đến chiếc áo bẩn ngắn cũn cỡn không cài khuy của Tí bụi…

Con Win ngày càng nặng nề. Thì ra hắn sắp làm mẹ. Một lần có giỗ, đợi hắn không ra, tôi cần bịch thức ăn hỏi như Tí bụi. Hắn ở tuốt xóm trong, bên hồ rau muống của bà Tư. Không ai thấy cha hắn. Hai mẹ con sống lăn lóc ở họ phố bụi bờ. Bà Tư cho che tạm túp lều bên hồ rau muống để vừa canh rau cho bả vừa có chỗ chui ra chui vào. “Nhà” Tí bụi mùa hè mát nhung mùa đông lạnh lùng. Túp lều đầy rác, nhỏ nhoi như tai nấm, không biết tựa vào đầu để trốn gió. Những tấm ni lông che chắn tạm bợ cứ lật lòng khoe túp lều nát rác đuổi nhau loăng quăng. Bà mẹ tâm thần của Tí bụi ngày nào cũng đi kiểm rác rồi tẩn mẩn đếm như người ta đếm tiền, thỉnh thoảng phì cười một mình.

Con Win có nhiệm vụ không cho người lạ vặt rau muống của bà Tư, không cho bà điên ra khỏi nhà ban đêm và theo Ti bụi kiếm ăn. Thấy tôi, hắn nhổm dậy mừng rồi lại nằm xuống hãnh diện liếm mấy chú cún bé xíu trên chiếc bao tời rách như muốn khoe rằng con hắn đấy! Còn Tí bụi đang luộc rau muống bằng rác, chùi tay vào quần giương mắt ngó tôi.

Trong túp lều rách nát ấy, những sinh vật khốn cùng lại rất thương nhau. Thấy cách Tí bụi săn sóc bà mẹ điên và bầy chó, tôi nhận ra sau lớp bụi đời và cáu bẩn, tâm hồn hắn vẫn lóng lánh những sắc màu đáng quý. Bầy chó con dễ thương lên từng ngày. Ti bụi bảo con đẹp nhất sẽ tặng tôi. Nhiều đêm tôi thức giấc, túp lều ngập rác và ngập cả tình yêu ấy bỗng hiện ra. Cả những dự tính. Chẳng hạn chuyện Ti bụi học chữ, đi bán vé số thay vì moi rác và ăn cắp...

Sáng ấy, tôi có tiết thao giảng. Vừa dắt xe ra đã thấy Ti bụi đợi ở cổng, nghẹn ngào! “Cô ơi! Con Win...”

Bà mẹ điên của Tí bụi lang thang tìm con Win, gặp ai cũng hỏi: “Thấy hắn mô không? Đêm qua tui trốn hắn đi chơi... Chứ hắn trốn tui đi chơi….”.

Dấu máu con Win vẫn còn trên lối xóm. Hắn bị bọn bắt chó quật gây sắt vào đầu khi chạy theo bà điên...

Trời trở lạnh Túp lều bên hồ rau muống đầy gió và im lặng. Những mảnh ni lông rách te tua vẫn cuồng loạn trong vũ khúc gió. Rác loãng quãng chơi trò đuổi nhau. Không thấy Tí bụi. Lù lù trong túp lều trống hoác là ổ chó chưa mở mắt. Chúng đang đói lạnh vì thiếu mẹ. Tôi cầm đĩa sẵn đến đó và thấy lũ chó châu đầu rúc vào một đồng đen đen. Nhìn kĩ là Tí bụi. Nó trùm bao tới, khoanh người ủ ấm cho lũ chó con!

(In trong Đám cưới cô, Quế Hương. NXB Kim Đồng, 2019)

Xem lời giải >>
Bài 14 :

Trình bày khái niệm của văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên.

Xem lời giải >>
Bài 15 :

Cấu trúc của văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên thường gồm mấy phần? Nội dung chính của từng phần là gì?

Xem lời giải >>
Bài 16 :

Nhận định nào sau đây KHÔNG PHẢI là đặc điểm về cách sử dụng ngôn ngữ của văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên.

a. Thường sử dụng từ ngữ thuộc một chuyên ngành khoa học cụ thể.

b. Thường sử dụng động từ miêu tả hoạt động hoặc trạng thái.

c. Thường sử dụng câu khiến để chỉ hành động hoặc yêu cầu thực hiện.

d. Thường sử  dụng từ ngữ miêu tả trình tự của một hoạt động.

Xem lời giải >>
Bài 17 :

Trình bày khái niệm và dấu hiệu nhận biết cách trình bày thông tin theo cấu trúc so sánh và đối chiếu trong văn bản thông tin.

Xem lời giải >>
Bài 18 :

Việc sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ trong văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên thường mang đến những hiệu quả biểu đạt như thế nào?

Xem lời giải >>
Bài 19 :

Đọc văn bản dưới đây và trả lời các câu hỏi:

Vì sao bầu trời lúc bình minh và hoàng hôn thường có màu sắc đẹp?

Bình minh và hoàng hôn thường là hai thời điểm bầu trời có màu sắc đẹp nhất trong ngày. Vì sao lại như vậy? Nói ngắn gọn, vẻ đẹp kì diệu ấy có được là nhờ ánh sáng và ánh sảng lại có màu. Dù bạn tin hay không thì sự thật là ánh sảng xung quanh bạn chính là sự kết hợp của tất cả màu sắc trên thế giới này.

Nếu ánh sáng xung quanh ta có màu thì vì sao chúng ta chỉ nhìn thấy một số màu trên bầu trời vào những thời điểm nhất định chứ không phải tất cả các màu? Và vì sao màu sắc bầu trời lúc bình minh, hoàng hôn lại thường có vẻ đẹp huyền diệu, mê hoặc đến như vậy? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn giải đáp những thắc mắc ấy. Trước tiên, chúng ta cần biết ngày chuyển sang đêm như thế nào.

Trái Đất di chuyển trong không gian

Hành tinh của chúng ta di chuyển trong không gian cùng với bảy hành tinh khác ở gần. Tất cả các hành tinh này vừa tự xoay quanh mình vừa xoay quanh Mặt Trời. Nếu Mặt Trời lặn hay hoàng hôn ở đâu thì nơi đó đang khuất dần khỏi ánh sáng Mặt Trời và quay lưng lại với Mặt Trời. Còn nếu Mặt Trời mọc hay bình minh ở đâu thì nơi đó lại chuyển sang hướng mặt về phía Mặt Trời. Đêm khuya là khi chúng ta hoàn toàn quay lưng lại Mặt Trời. Còn ban ngày là khi chúng ta đối diện trực tiếp với Mặt Trời và các chùm tia Mặt Trời chiếu (cực nhanh) thẳng vào chúng ta.

Mặc dù chúng ta quan sát bằng mắt thường không thể phân biệt được, nhưng các chùm tia sáng từ Mặt Trời đến Trái Đất có kich thước khác nhau. Các nhà khoa học đo kích thước các chùm tia này bằng “bước sóng”. Mỗi bước sóng ánh sáng có một màu sắc riêng của nó.

Trái Đất được bao bọc bởi khí quyển của mình

Như vậy, chúng ta đã biết vì sao bầu trời lại sáng vào ban ngày và tối vào ban đêm, các chùm tia sáng Mặt Trời có kích thước khác nhau hay có bước sóng khác nhau.

Tuy nhiên, làm sao mà chúng ta nhỉn thấy những màu sắc rực rỡ vào lúc bình minh và hoàng hôn? Đó là nhờ một “tầm chăn” không khí rất quan trọng luôn bao bọc lấy Trái Đất, tấm chăn đó chính là khí quyển. Khí quyển của Trái Đất được tạo nên bởi rất nhiều vật thể bé li ti gọi là các phân tử. Trên thực tế, tất cả mọi vật đều có cấu tạo từ các phân tử, kể cả cơ thể chúng ta. Một phân tử nhỏ hơn rất nhiều so với một hạt cát. Phân từ nhỏ đến nỗi chúng ta không thể nhin bằng mắt thường mà phải nhờ đến kính hiển vi mới có thể quan sát dược, còn mắt thường chỉ nhìn thấy những vật được tạo thành từ các phân tử.

Khí quyển “chơi đùa" với ánh sáng

Khi các chùm sáng Mặt Trời đến Trái Đất, chúng gặp các phân tử trong khí quyển của Trái Đắt. Các phân từ này bắt đầu kết hợp với ánh sáng, đấy ánh sáng qua lại giữa các phân tử. Hiện tượng này gọi là “phân tán ánh sáng”.

Ánh sáng có bước sóng càng dài thì nó cảng phân tán được lâu giữa các phân tử trong khí quyển của Trái Đất trước khi nó yếu đi và quay trở lại không gian. Ánh sáng xanh dương có bước sóng ngắn hơn ánh sáng đỏ hoặc ánh sáng hồng. Điều đó có nghĩa là ánh sáng xanh dương chỉ có thể va đập giữa các phân tử trong một khoảng cách ngắn hơn ánh sáng hồng hoặc đỏ. Nơi nào đang đối diện trực tiếp với Mặt Trời (vào ban ngày) thì nơi đó ánh sáng sẽ đi qua lớp khí quyền ít hơn, mông hơn. Vì vậy, ánh sáng xanh dương có thể dễ dàng lọt qua phía bên kia, nhở đó mà chúng ta có được bầu trời màu xanh.

Màu sắc lúc bình minh và hoàng hôn

Chúng ta biết rằng Trái Đất tự xoay quanh mình. Hoàng hôn ở nơi nào thì nơi đó đang quay mặt dần khởi Mặt Trời và không đối diện trực tiếp với Mặt Trời nữa. Điều này có nghĩa là ánh sáng Mặt Trời phải đi qua một lát cắt khi quyển dày hơn để chiếu đến nơi đó. Hiện tượng này cũng xảy ra vào lúc bình minh khi nơi đó hướng dần về phía Mặt Trời.

Để đi qua quãng đường dài hơn đó của khí quyển, ánh sáng xanh dương “mệt mỏi” và không thể trụ vững được nữa, do đó hầu hết ánh sáng xanh này quay trở lại vũ trụ. Tuy nhiên, ánh sáng đỏ, cam và vàng lại có bước sóng dài hơn, nghĩa là chúng có thể phân tán lâu hơn và đi qua lớp khí quyển dày hơn để đến được với mắt người quan sát trên bề mặt Trái Đất. Chính vì thế, chúng ta thường nhìn thấy bầu trời lúc bình minh và hoàng hôn có màu sắc rực rỡ, đẹp mắt.

Đặc biệt, vào những lúc không khí khô, các phân tử khói, bụi trong không khí dày đặc hơn khiến cho ánh sáng bị tán xạ nhiều hơn. Lúc đó, bình minh và hoàng hôn có màu sắc đỏ rất huyền diệu và kì bí.

(Theo Phạm Hường, Bảo Tuấn, https: //dantri.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/vi-sao-bau-troi-luc-binh-minh-va-hoang-hon-thuong-co-mau-sac-dep-20210118154633532.htm; https: //tienphong vn/vi-sao-binh-minh-va-hoang-hon-co-mau-do-post1046434.tpo)

Xem lời giải >>
Bài 20 :

Đọc văn bản dưới đây và trả lời các câu hỏi:

a. Vẽ sơ đồ cấu trúc của văn bản trên và tóm tắt nội dung từng phần đã xác định.

b. Xác định (những) thông tin cơ bản của văn bản. Các chi tiết trong văn bản đã góp phần hỗ trợ thể hiện (những) thông tin cơ bản ấy ra sao? Hãy lí giải.

c. Đặc điểm của cách sử dụng ngôn ngữ trong văn bản có cho thấy đây là văn bản thông tin giải thích một hiện tượng tự nhiên không? Vì sao?

d. Xác định cách trình bày thông tin của đoạn trích sau và cho biết tác dụng của cách trình bày ấy: “Hành tinh của chúng ta di chuyển trong không gian cùng với bảy hành tinh khác ở gần ... Còn ban ngày là khi chúng ta đối diện trực tiếp với Mặt Trời và các chùm tia Mặt Trời chiếu (cực nhanh) thẳng vào chúng ta.”

đ. Văn bản đã sử dụng (những) loại phương tiện phi ngôn ngữ nào? Hiệu quả biểu đạt của chúng là gì?

e. Việc hiểu biết về những thông tin trên đem đến cho em cảm nhận gì về thế giới tự nhiên? Từ đó, em có suy nghĩ gì về quan niệm cho rằng con người có thể chế ngự, kiểm soát và khai thác thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình?

Xem lời giải >>
Bài 21 :

Nối nội dung ở cột A với nội dung tương ứng ở cột B:

A

B

1. Luận đề

a. Những thông tin khách quan, có thể kiểm chứng được trong thực tế

2. Luận điểm

b.Những nhận định, suy nghĩ, phán đoán theo góc nhìn chủ quan của người viết

3. Bằng chứng khách quan

c.Vấn đề chính được nêu ra để bàn luận trong văn bản nghị luận

4. Ý kiến, đánh giá chủ quan

d. Ý kiến thể hiện quan điểm của người viết về luận đề

Xem lời giải >>
Bài 22 :

Trình bày mối liên hệ giữa luận đề, luận điểm, lí lẽ và bằng chứng trong văn bản nghị luận.

Xem lời giải >>
Bài 23 :

Trình bày mối liên hệ giữa luận đề, luận điểm, lí lẽ và bằng chứng trong văn bản nghị luận.

Xem lời giải >>
Bài 24 :

Chỉ ra bằng chứng khách quan và ý kiến, đánh giá chủ quan trong các ngữ liệu dưới đây bằng cách hoàn thành bảng (làm vào vở):

STT

Ngữ liệu

Bằng chứng khách quan

Ý kiến, đánh giá chủ quan

Lí giải

1

Ma-la-la Diu-sa-phdai (Malala Yousafzai) đã được trao giải Nô-ben (Nobel) Hoà bình năm 17 tuổi.

 

 

 

2

Điện thoại thông minh mang đến những tiện ích giúp việc liên lạc thuận tiện hơn.

 

 

 

3

Dự đoán trong mười năm tới, trí tuệ nhân tạo sẽ chiếm lĩnh thị trường lao động.

 

 

 

4

Tôi cho rằng, hiện nay các bạn trẻ đang thiếu định hướng trong việc chọn nghề.

 

 

 

5

Chiếc lá cuối cùng của Ô. Hen-ri (O' Henry) là một truyện ngắn vô cùng cảm động.

 

 

 

Xem lời giải >>
Bài 25 :

TIẾNG THU - MỘT TÂM HỒN CÔ ĐƠN (Trần Đình Sử)

Người Việt Nam yêu Thơ mới không ai không ám ảnh bởi Tiếng thu, không ai không yêu Tiếng thu của Lưu Trọng Lư. Người quen yêu thơ Đường với giá trị hội hoạ, nhìn thấy ở đó một bức tranh phương Đông thuần tuý. Người yêu thơ lãng mạn nhận thấy âm nhạc là đặc trưng nổi bật, là nhịp mạnh của Thơ mới liền hiểu Tiếng thu là thơ nhạc của Lưu Trọng Lư. Bên cạnh đó, phần lớn các bài phân tích, bình giảng về tác phẩm Tiếng thu đều đọc thơ qua nhạc, qua hoạ mà ít đọc nó như là một tác phẩm thơ - thể loại không chỉ nói bằng hoạ, nhạc mà còn nói một cách mạnh mẽ, tha thiết bằng chính giọng và lời, lời của con người, của cảnh vật. Với ba câu hỏi dồn dập và hệ thống hình ảnh tương phản, phi đối xứng, tiếng thu của Lưu Trọng Lư, tiếng nói của một tâm hồn cô đơn, đã được cất lên một cách mãnh liệt và tha thiết.

Trước tiên, không thể không nhận thấy cả bài thơ được tổ chức bằng ba câu hỏi. Nhà nghiên cứu Văn Tâm đã khảo sát văn bản và cho biết: 9 dòng thơ viết liền mạch, không chia khổ, chỉ có 3 chữ "Em” đứng đầu dòng viết hoa, và cuối mỗi câu hỏi có một dấu hỏi. Nó chứng tỏ đây là 3 câu hỏi trọn vẹn được ngắt ra, tổ chức thành dòng thơ. Cái đặc biệt của bài thơ này là câu hỏi được đặt bằng từ phủ định: Em không nghe mùa thu/ Em không nghe rạo rực/ Em không nghe rừng thu. Nếu thay từ “có” vào vị trí của từ “không” thì mới đọc qua tưởng không có gì khác biệt nhưng suy ngẫm sẽ thấy khác nhiều. “Em có nghe mùa thu” có một tiền giả định là có sự đồng cảm giữa người hỏi và người được hỏi mà câu hỏi nêu ra để khêu gợi và khẳng định. Còn Em không nghe mùa thu là tiền giả định rằng thiếu một sự đồng cảm ở bên trong, một câu hỏi có vẻ ngạc nhiên, xa lạ. Ba câu hỏi đồn dập, tha thiết nhưng có hỏi mà không có đáp - có người nghe và có người không nghe. Tiếng thu là tiếng buồn, tiếng rạo rực trong lòng người cô phụ đơn chiếc, tiếng thời gian ra đi. Nhưng tiếng thu còn buồn hơn vì nỗi buồn không được chia sẻ. Nó không chỉ buồn mà còn cô đơn. Những gì anh nghe, em không nghe chăng? Cụm từ Em không nghe lặp lại ba lần nhấn mạnh một tiếng lòng lẻ lơi. Em không nghe thổn thức, em không nghe rạo rực, em không nghe lá kêu. Thổn thức, rạo rực là những trạng thái nội tăm thầm kín mà người ta chỉ có thể nghe được bằng chính tâm hồn minh. Hay là em không nghe thấy cả chính tiếng lòng em? Điều đó càng buồn hơn.

Ngoài ra, bài thơ còn được xảy dựng theo nguyên tắc phi đối xứng. Về mặt hình ảnh, đây không phải là bức tranh hài hoà. Rạo rực hình ảnh kẻ chinh phu trong lòng người cô phụ là không hài hòa. Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá thu kêu là không hài hòa. "Lá thu kêu” chính là tiếng mùa thu của Lưu Trọng Lư. Nó không "reo" mà "kêu", một tiếng kêu buồn. Còn con nai vàng thì như không nghe thấy gì, nó ngơ ngác đạp trên là vàng khô. [ ... ] Theo chúng tôi, con nai vàng đạp trên lá vàng khô, trông bề ngoài là bức tranh đồng màu, nhưng không đồng cảm. Nó làm cho sự tương phản trong bài thơ trở nên trọn vẹn. Một bên thì "thổn thức", "rạo rực", "kêu xào xạc", một bên thì "không nghe", "không nghe", "không nghe” và đỉnh cao của sự không nghe ấy là con nai vàng ngơ ngắc - đạp trên là vàng khô. Có cái gì giống như cảnh của Huy Cận: Không cầu gợi chút niềm thân mật/ Lăng lẽ bở xanh tiềp bãi vàng (Tràng giang). Bài thơ không diễn tà sự hài hoà, trái lại nó diễn tả sự tương phản, phi đối xứng để từ đó thức tỉnh tình cảm và khát vọng về sự hài hòa mới - sự đồng cảm của các cá nhân. Nhà thơ lãng mạn Đức Hen-rích Hai-nơ (Henrich Heine) nói: "Toàn thế giới nổ tung ở khoảng giữa, và vết nứt thế giới vĩ đại ấy chạy qua trái tim nhà thơ". Cùng với ý thức về cái TÔI, các nhà thơ lãng mạn đã cảm thấy vết nứt qua trái tim mình - sự cô đơn, thiếu thông cảm.

Tiếng thu có tự ngàn xưa. Nhưng trong thơ cổ, tiếng thu là tiếng gợi niềm hoài niệm, là tiếng chày đập vải gợi nỗi nhớ chồng, là các lễ tiết mùa thu gợi tình huynh đệ, bạn bè, là mùa gợi sự tàn tạ của cỏ cây hoa lá. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư gợi niềm rạo rực yêu đương chưa được thoá mãn, gợi tiếng “kêu” của bao kiếp lá lìa cành, gợi sự thổn thức phổ biến của sự sống giữa thời tiết thay đổi. Tiếng thu xưa là tiếng buồn của cái tôi bị tách rời cái toàn bộ. Tiếng thu nay là tiếng buồn, cô đơn của cái tôi thức tỉnh nhưng không được chia sẻ.

(Trích bài viết Tiếng thu - Một tâm hồn cô đơn, Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, 1997)

Xem lời giải >>
Bài 26 :

Trình bày khái niệm truyện cười.

Xem lời giải >>
Bài 27 :

Vẽ sơ đồ tóm tắt các đặc điểm của truyện cười dựa vào gợi ý sau (làm vào vở):

 

Xem lời giải >>
Bài 28 :

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

THÀ CHẾT CÒN HƠN

Xưa có anh keo kiệt, ăn chẳng dám ăn, mặc chẳng dám mặc, cứ khư khư tích của làm giàu.

Một hôm có người bạn rủ ra tỉnh chơi. Trước anh ta còn từ chối, sau người bạn nài mãi, anh ta mới vào phòng lấy ba quan tiền giắt lưng rồi cùng đi.

Khi ra đến tỉnh, trông thấy cái gì anh ta cũng muốn mua nhưng sợ mất tiền lại thôi. Trời nắng quá, muốn vào hàng uống nước lại sợ phải thiết bạn, không dám vào.

Đến chiều trở về, khi qua đò đến giữa sông, anh keo kiệt khát nước quá mới cúi xuống uống nước, chẳng may ngã lộn cổ xuống sông.

Anh bạn trên thuyền kêu:

- Ai cứu xin thưởng năm quan!

Anh keo kiệt ở giữa dòng sông, nghe tiếng cố ngoi lên, nói:

- Năm quan đắt quá!

Anh bạn chữa lại:

- Ba quan vậy!

Anh hà tiện lại ngoi đầu lên lần nữa:

- Ba quan vẫn đắt, thà chết còn hơn!

(In trong Văn học dân gian những tác phẩm chọn lọc, Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên), NXB Giáo dục, 2004)

Xem lời giải >>
Bài 29 :

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

ĐẤT NỨT CON BỌ HUNG

Từ bé Quỳnh đã nổi tiếng học giỏi và đối đáp nhanh. Trong làng có ông Tú Cát rất hợm hĩnh mình, đi đâu cũng khoe mình hay chữ. Quỳnh rất ghét những loại người như vậy. Một hôm Quỳnh đang đứng xem đàn lợn ăn cám trong chuồng, Tú Cát đi qua trông thấy, liền gọi Quỳnh lại và bảo:

- Ta nghe đồn mày thông minh và có tài đối đáp. Bây giờ ta ra cho mày một câu đối, nếu không đối được, ta sẽ đánh đòn.

Nói rồi, Tú Cát lên giọng, gật gù ngâm nga:

- Lợn cấn ăn cám tốn.

Tú Cát nghĩ rằng câu này rất khó đối, ví “cấn” và “tốn” là hai quẻ trong kinh Dịch nào ngờ. Quỳnh đối lại ngay: “Chó khôn chớ cắn càn.”

Vế này cũng có “khôn” và “càn” là tên hai quẻ trong kinh Dịch, đồng thời lại có ý xỏ Tú Cát là chó. Không ngờ bị chơi đau như vậy, Tú Cát tức lắm, hằm hằm bảo:

- Được! Ta ra thêm vế nữa, phải đối lại ngay – rồi đọc – Trời sinh ông Tú Cát.

Quỳnh đối luôn:

- Đất nứt con bọ hung.

Tú Cát tức đến sặc tiết nhưng không làm gì được, vì Quỳnh đối rất chỉnh, đành lùi thủi bỏ đi.

Xem lời giải >>
Bài 30 :

a. Những nhân vật nào trong văn bản là hiện thân cho cái thấp kém? Dựa vào đâu để em khẳng định như vậy?

b. Tóm tắt các hành động làm nảy sinh xung đột , giải quyết xung đột trong văn bản và cho biết nguyên nhân chính làm nảy sinh các xung đột đó. Theo em, xung đột trong văn bản trên có gì khác với xung đột trong văn bản Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục?

c. Nêu tác dụng của xung đột kịch trong việc tạo ra tiếng cười trong văn bản.

d. Xác định chủ đề của văn bản trên và cho biết căn cứ vào đâu để xác định như vậy.

e. Nhận xét về nghệ thuật tạo tiếng cười qua cách đặt và gọi tên nhân vật, cách viết lời thoại trong văn bản.

g. Theo em, qua văn bản trên, tác giả muốn gửi đến người đọc/ người xem thông điệp gì?

h. Những dấu hiệu nào giúp em nhận biết văn bản trên thuộc thể loại hài kịch? 

Xem lời giải >>