Mời trầu

Phân tích bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương


Hồ Xuân Hương là nhà thơ nổi tiếng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Bài mẫu 1

Hồ Xuân Hương là nhà thơ nổi tiếng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Ở giai đoạn lịch sử này, chế độ phong kiến suy tàn đã bộc lộ những hạn chế, bất công. Hồ Xuân Hương đã gửi gắm vào thơ những suy tư, trăn trở trước hiện thực của xã hội, trước thân phận bất hạnh của con người, nhất là người phụ nữ. Những tác phẩm thơ Nôm tiêu biểu của bà thời kì này không thể không kể đến bài thơ “Mời trầu”.

Mời trầu cũng như nhiều bài thơ khác của Hồ Xuân Hương thuộc thể tuyệt cú cổ điển. Đấy là một thể Đường luật thi, một thứ văn chương bác học. Nhưng đọc “Mời trầu” không ai có ý nghĩ đây là bài thơ Đường du nhập từ Trung Quốc vào qua những nhà trí thức Hán học. Có một cái gì thật là nôm na dân dã ở lời thơ hết sức bình dị và giọng điệu mộc mạc.

Hình ảnh miếng trầu đã mang đến cho chúng ta những liên tưởng về miếng trầu truyền thống gắn liền với những niềm vui như đám cưới, nó cũng gắn liền với những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam trong sự tích trầu cau. Còn ở đây thì sao?. Miếng trầu ấy thể hiện được nỗi lòng Xuân Hương khao khát có một tình yêu thật sự, một hạnh phúc vợ chồng đời thường êm ấm, nồng đượm.

Trước hết hai câu thơ đầu nhà thơ nói về miếng trầu ấy và chủ nhân làm ra miếng trầu ấy chính là Xuân Hương:

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi”

Miếng trầu ấy có quả cau, có lá trầu. Hai thứ ấy đi liền với nhau để làm nên một miếng trầu. Hình ảnh những miếng trầu têm xanh ngắt cánh phượng mới đẹp làm sao. Quả cau thì nho nhỏ gợi lên cái hình ảnh nhỏ bé của miếng trầu nhưng lại rất đẹp. Sự nhỏ bé ấy hay cũng chính là sự nhỏ bé của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Miếng trầu hôi không phải là nó có mùi hôi mà do lá trầu cay nên nói như thế. Hình ảnh miếng trầu có ngàn năm tuổi như thể hiện cho nguyện ước khát khao lứa đôi của bà chúa thơ Nôm. Người sở hữu miếng trầu ấy chính là nhà thơ. Từ “này” thể hiện được tiếng mời, tiếng xưng danh của Xuân Hương. Miếng trầu ấy mới quệt xong, nó vẫn còn tươi xanh, ngọt bùi lắm. Miếng trầu của Xuân Hương không khác gì miếng trầu bình thường khác về hình thức nhưng miếng trầu ấy chất chứa biết bao nhiêu là tâm sự là nỗi lòng của người con gái kia. Đó chính là miếng trầu của lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của thi sĩ.

Thế nhưng, sau tấm chân tình gần như bình thản ấy là một giọng nói nhẹ nhàng chất chứa bao cảm xúc, bao nỗi niềm.

“Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.

Hồ Xuân Hương đưa ra một câu hỏi vừa đưa ra một yêu cầu. “Có phải duyên nhau thì thắm lại”. Từ “thắm” sử dụng rất đắt. “Duyên” theo quan niệm dân gian là sự ràng buộc lẫn nhau từ kiếp trước đến kiếp này, Hồ Xuân Hương muốn nói đến cái duyên ấy. Hai câu thơ đầu nói về chuyện ăn trầu, hai câu cuối chuyển sang chuyện duyên số, chuyện con người vậy mà ý thơ vẫn liền mạch, không gò bó chứng tỏ tài dùng ẩn dụ của nhà thơ đến mức tuyệt vời. Nhà thơ còn vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong câu kết làm cho ý thơ thật đặc sắc.

Bài thơ không chỉ đơn giản nói về duyên trầu mà Hồ Xuân Hương đã nói đến duyên phận của con người, của người phụ nữ thời phong kiến. Cái duyên ấy bấp bênh bạc bẽo như vôi. Như trong một số bài khác bà có nhắc nhiều đến duyên phận của người phụ nữ ‘thân em vừa trắng lại vừa tròn – bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi nước). Qua đó gợi lòng thương cảm tới những con người có niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi, một tình yêu son sắt thủy chung.

Với ngôn từ giản dị, giàu ý nghĩa, bài thơ “Mời trầu” như bao quát chuyện tình duyên lận đận của tác giả. Bà luôn khao khát sống với hạnh phúc lứa đôi. Đó là một tình cảm thật sự chứ không phải là thứ tình cảm vợ lẽ, chính vì thế mà ta cảm thấy yêu quý hơn người phụ nữ tài ba ấy.

Bài mẫu 2

Thơ Xuân Hương cho đến nay vẫn hấp dẫn người đọc, cái thanh cái tục trong thơ bà đầy ẩn ý thế nhưng người ta không thể nào không thấy được những ý nghĩa nội dung mà bà muốn truyền tải qua những câu thơ của mình. Có thể nói rằng tài năng thơ ca của bà thật xứng danh với cái tên gọi mà người đời gọi bà đó chính là bà chúa thơ Nôm. Trong số những bài thơ Nôm ấy nổi bật lên bài thơ Mời trầu mà qua đó ta thấy được những tâm sự những điều mà Xuân Hương trăn trở về cuộc đời của mình. Chuyện tình duyên và nỗi lòng người phụ nữ tài ba ấy được khắc hoạ rất rõ.

Bài thơ Mời trầu chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng lại chứa đựng biết bao nhiêu là tâm sự tâm tình của người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Hồ Xuân Hương. Có thể nói rằng cả cuộc đời bà luôn bênh vực người phụ nữ cũng chính là bênh vực chính bản thân mình trong xã hội trọng nam khinh nữ ấy. Qua đấy ta có thể thấy được Xuân Hương quả thật là một người mạnh mẽ, bà có tiếng nói riêng đại diện cho những người phụ nữ. bai thơ Mời trầu đã thể hiện rõ những nỗi lòng của bà chúa thơ Nôm.

Nhan đề bài thơ là Mời trầu cũng mang những ý nghĩa truyền tải nhất định. Nhan đề là sự bộc lộ chủ đề của tác phẩm chính vì thế mà mỗi nhà thơ nhà văn đều đặt cho con tinh thần của mình những cái tên mang cả nội dung lẫn nghệ thuật. Hình ảnh miếng trầu kia đã mang đến cho chúng ta những liên tưởng về miếng trầu truyền thống gắn liền với những niềm vui như đám cưới, nó cũng gắn liền với những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam trong sự tích trầu cau. Còn ở đây thì sao?. Miếng trầu ấy thể hiện được nỗi lòng Xuân Hương khao khát có một tình yêu thật sự, một hạnh phúc vợ chồng đời thường êm ấm, nồng đượm.

Trước hết hai câu thơ dầu nhà thơ nói về miếng trầu ấy và chủ nhân làm ra miếng trầu ấy chính là Xuân Hương:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi

Miếng trầu ấy có quả cau, có là trầu hai thứ ấy đi liền với nhau để làm nên một miếng trầu. Hình ảnh những miếng trầu têm xanh ngắt cánh phượng mới đẹp làm sao. Nó không chỉ đẹp mắt đẹp tâm tình mà còn đẹp cả tấm lòng người trao đi nữa. Quả cau thì nho nhỏ gợi lên cái hình ảnh nhỏ bé của miếng trầu nhưng lại rất đẹp. Sự nhỏ bé ấy hay cũng chính là sự nhỏ bé của thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Miếng trầu hôi không phải là nó có mùi hôi mà do lá trầu cay nên nói như thế. Hình ảnh miếng trầu có ngàn năm tuổi như thể hiện cho nguyện ước khát khao lứa đôi của bà chúa thơ Nôm. Người sở hữu miếng trầu ấy chính là nhà thơ. Từ “này” thể hiện được tiếng mời, tiếng xưng danh của Xuân Hương. Miếng trầu ấy mới quẹt xong, nó vẫn còn tươi xanh, ngọt bùi lắm. Miếng trầu của Xuân Hương không khác gì miếng trầu bình thường khác về hình thức nhưng miếng trầu ấy chất chứa biết bao nhiêu là tâm sự là nỗi lòng của người con gái kia. Đó chính là miếng trầu của lòng khao khát hạnh phúc lứa đôi của thi sĩ.

Sang đến hai câu thơ sau thì thi sĩ muốn gửi đến những lời nhắn nhủ cho những bậc quân tử trên cõi đời này rằng:

Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi

Chính nỗi khao khát tình yêu khiến cho nhà thơ mong muốn rằng người quân tử nếu có duyên với Xuân Hương thì bén lại chứ đừng bạc như vôi xanh như lá. Cái duyên trên cõi đời này được người xưa vô cùng tin vào nó. Không có duyên thì có gần gũi đến mấy cũng không thể nào có tình cảm yêu thương được nhưng có duyên thì lại thắm lại ngay. Không gần cũng yêu thương da diết vô bờ. Thi sĩ nói đừng xanh như lá bạc như vôi là có ý gì?. Lá cây bao giờ chẳng xanh, không xanh thì đâu còn là lá cây nữa. vôi thì màu trắng bạc rồi. Có thể nói ở đây nhà thơ đã sử dụng biện pháp so sánh kết hợp với lối nói cái tự nhiên vốn có để chỉ cái mong muốn trong tình yêu của con người. lá xanh thì tốt, vôi trắng bạc là đương nhiên nhưng con người mang những trạng thái đó thì không tốt. Bởi vì cái xanh cái bạc kia là để chỉ sự xanh rờn, sự bạc bẽo của con người với nhau. Chính vì thế Xuân Hương mượn ngay hình ảnh của lá trầu, vôi trắng mà gửi thầm cái nguyện ước nhắn nhủ của bản thân mình.

Bài thơ như một dòng nhật kí của thi sĩ, Xuân Hương đã viết vào đó những tâm tư tình cảm của mình. bà là luôn khao khát sống với hạnh phúc lứa đôi. Đó là một tình cảm thật sự chứ không phải là thứ tình cảm vợ lẽ, chính vì thế mà ta cảm thấy yêu quý hơn người phụ nữ tài ba ấy.

Bài mẫu 3

Nhiều người làm thơ về tình yêu. Nhiều nhà thơ được mệnh danh là “ thi sĩ của tình yêu”. Trong thơ của mình, họ thể hiện những cảm xúc, suy tư, những yêu thương, trăn trở…Những bài thơ tình là những cung bậc, những nỗi niềm riêng, khao khát hạnh phúc, yêu thương giận hờn…Những nhà thơ nữ lại có một cách thể hiện nội tâm hết sức nhạy cảm, tinh tế. Bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương là niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi của một trái tim nồng nàn, đằm thắm, giàu cá tính – được thể hiện một cách chân tình.

Đi qua cuộc đời của Hồ Xuân Hương có khá nhiều người bạn tình nhưng cuối cùng vẫn không được bền lâu. Tình cảm xao xuyến của thời tuổi trẻ cùng những lời giỡn cợt của Chiêu Hổ, thoắt lại là cái kiếp làm lẽ tủi nhục trăm bề trong sự lạnh lẽo của Tổng Cóc. Bạn văn chương như ông phủ Vĩnh Tường cũng chỉ là mộng ảo ngắn ngủi. Trái tim yêu thương của Xuân Hương tưởng chừng tan nát vì sự trớ trêu đến thế. Bao đêm trường ôm hận một mình, xót xa tự an ủi Thân này đâu đã chịu già tom Xuân Hương đã cảm thấy chua chat, cay đắng cho mình cho những cuộc tình.

Bài thơ Mời trầu có lẽ ra đời trong giai đoạn nữ sĩ dựng quán nước kén bạn trăm năm. Thực ra, Xuân Hương đã ý thức được mình, đến độ chín chắn, cần một bạn chi kỷ hơn là những yêu đương nồng cháy thời tuổi trẻ. Bởi lẽ, nữ sĩ đã cảm nhận được sự lạnh giá cô đơn, rất cần một sự động viên an ủi, những lời nói tâm tình.

Rất trung thực, khiêm tốn và chân thành, Hồ Xuân Hương đã nói về mình hết sức thẳng thắn.

Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi.

Chỉ bình thường thế thôi, như bao điều đơn giản khác. Nhưng trong cái đơn giản ấy ẩn chứa một điều gì sâu xa. Đừng vội lầm tưởng ý xuân của Xuân Hương. Vâng, cái nho nhỏ, cái hôi ấy chỉ là cái vẻ bề ngoài thôi. Xuân Hương đã lấy cái hồn dân tộc Việt Nam thanh cao cau trầu keo sơn gắn bó mà nói về tình yêu của mình, độc đáo và thi vị. Nhưng, độc đáo tất có phong cách riêng – phong cách Hồ Xuân Hương.

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

Một cách thể hiện cái tôi của mình rất chuẩn nhị, độc đáo mà lại duyên dáng. Nhà thơ tự trải lòng mình, bày tâm tư, tình cảm một cách chân thật. Không! Tôi không hề giải dối hình thức. Một cách khách thể hóa cũng lạ kỳ, cảm động làm sao. Cái chân thành của Xuân Hương, như thế là đã hết mức rồi. Trong câu thơ còn mang một cách nói mới lạ, rất Xuân Hương: quệt. Một động từ độc đáo, chỉ ở con người cũng độc đáo, đầy cá tính một cách chặt chẽ, người đọc cảm thấy thú vị và yêu hơn cái quệt dễ thương, thấm đẫm tình ý ấy. Những động từ khác, giả sử được đưa vào thay thế, có lẽ và chắc chắn rằng không thể lột tả được cái ý, cái tình mà câu thơ gửi gắm.

Thế nhưng, sau tấm chân tình gần như bình thản ấy là một giọng nói nhẹ nhàng chất chứa bao cảm xúc, bao nỗi niềm.

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

Có phải duyên nhau – người ấy cùng tâm sự sẽ hiểu được Hồ Xuân Hương cần gì ở chữ duyên ấy.

Một người đồng cảm để cùng xướng họa, ngâm thơ, chia sẻ những buồn vui cuộc sống, một người bạn tri kỷ tri âm để có thể gắn bó, tin tưởng và yêu thương hết lòng. Trái tim người phụ nữ này chỉ cần như vậy mà cảm thấy sao quá đỗi khó khăn, xa vời. Nhiều lầnh cũng muốn dứt cho xong nhưng trái tim vẫn không ngừng khao khát, không ngừng ước muốn. Xuân Hương trong tình yêu, càng đắm say càng lo sợ một sự cách chia, phai bạc, dường như những người yêu tha thiết thường hay sợ một ngày mai không còn được nguyên vẹn tươi thắm như buổi ban đầu. Đọc kỹ hai câu thơ mới biết chủ ý của nhà thơ sợ người tình đến với nhau không bằng tất cả tình yêu và tấm lòng xanh thắm bền chặt. Như thế, còn gì đau đớn bằng ! Người như “ con thỏ giỡn với bóng trăng” ấy phụ cả một niềm tin chân thành thì còn biết gì để nói nữa. Ca dao ngày xưa viết “ tưởng giếng nước sâu Em nối sợi gầu dài – Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây”. Sự hòa hợp không gìn giữ một tình yêu chân thật thủy chung. Bài thơ gợi cho người đọc mối thương cảm đến xót xa. Ta bỗng trăn trở tự hỏi, lẽ nào một người như Hồ Xuân Hương mà ước nguyện chính đáng, thường tình lại không thành?

Bởi thế, trước những ngang trái trong đường tình duyên, trái tim khắc khoải, yêu nồng nàn của Xuân Hương lên tiếng đòi hỏi chính đáng. Đòi hỏi như vậy cũng chưa phải là nhiều lắm đâu. Ai yêu tâm hồn, tình cảm Hồ Xuân Hương bằng tất cả tâm hồn và tình cảm chân thành của mình, chắc chắn sẽ được nữ sĩ đón nhận – Hồ Xuân Hương tối kỵ sự giả dối, trong tình yêu không có sự giả dối, Hãy đến với nhau bằng tình yêu nồng thắm, chân thành, như thế cuộc đời, con người và tình yêu mới thực sự có ý nghĩa. Bài thơ Mời trầu, tình yêu của Hồ Xuân Hương đang chào mời. Người yêu thơ, yêu Hồ Xuân Hương , hãy đón nhận.

Bài mẫu 3

Thông thường, những tác phẩm có tư tưởng lớn đều có hình thức mang tầm vóc lớn, đề tài cũng lớn. Những tác phẩm lấy đề tài nhỏ bé, hình thức xinh xắn chỉ đủ sức chứa đựng một tư tưởng quẩn quanh với cuộc sống sinh hoạt đời thường. Tuy nhiên, văn học cũng không hiếm những nghịch lý, làm nên sự kỳ diệu của nó. Đó là trường hợp những bài thơ đề tài nhỏ bé, hình thức xinh xắn nhưng chứa đựng những tư tưởng lớn, phá vỡ cái chật hẹp, ràng rịt của tư tưởng cũ kỹ, hà khắc; nâng niu một khát vọng mãnh liệt, chân thành. Bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương là một điển hình như vậy:

“ Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi”

Bài thơ ra đời vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Cảm thức thẩm mỹ bấy giờ thường trọng vọng những bài Đường luật đạo mạo, cổ kính, với thứ chữ Hán được điểm tô lộng lẫy bằng vô số điển tích ngoại lai. Vậy mà Mời trầu, vẫn khuôn khổ một thất ngôn tứ tuyệt, nhưng vóc dáng đường hoàng là chữ Nôm, hồn dân tộc. Thứ chữ “nôm na mách qué” đó đã tạo một tầm vóc trẻ, sừng sững trên văn đàn, mang theo sinh khí của văn hóa dân gian Việt nam: ca dao, tục ngữ, thành ngữ,…

Thời đại này, các nho sĩ hầu hết là nam giới. Tài tử, văn nhân hầu hết là đấng “tu mi” ngâm hoa vịnh nguyệt, cố teo tóp cái bản ngã, để hòa tan, trộn lẫn vào “cái ta” nhợt nhạt, vô hồn. Vậy mà, trong lúc đó, tác giả của Mời trầu lại là nữ giới – một phụ nữ dám tung hê, bóc trần cái “hoa nguyệt” giả dối, phù phiếm. Nữ sĩ còn dám đường hoàng xưng “tôi”, “cái tôi” làm kinh ngạc, ngã ngửa bao đấng tu mi, những bậc “hiền nhân quân tử ”.

Bài thơ thật xinh xắn, chỉ hai mươi tám chữ. Đề tài lại nhỏ bé, chuyện mời trầu. Tưởng gì, “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Từ thuở xa xưa, người Việt đã có tục ăn trầu. Người Việt vốn hiếu khách, lại hay giao tiếp, chuyện mời trầu nhau có gì đáng nói? Nhưng ngờ đâu, một tứ thơ lớn đã ẩn sau đề tài nhỏ bé ấy. Miếng trầu là vật để giao tiếp, đãi bôi . Nhưng miếng trầu còn là sự thắm đỏ của nghĩa tình, là sứ giả của tình yêu, là chứng nhân của tình chồng vợ:

“ Trầu này trầu nghĩa, trầu tình

Cho loan lấy phượng, cho mình lấy ta”

Hay là:

“ Có trầu mà chẳng có cau

Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm”

Vậy, mời trầu ở đây đâu chỉ là hình thức giao tiếp. Mời trầu kỳ thực là mời tình. Nói đến tình là nói đến cõi tế vi, kỳ diệu của tâm hồn, của trái tim rồi! Mà chuyện tình, trong xã hội phong kiến, đâu phải là đề tài nhàn đàm lúc trà dư tửu hậu. Ở một góc nào đó, nó còn là điều cấm kỵ đối với các bậc mũ cao, áo dài. Đàn bà lại càng không được nói đến. Quyền mời trầu chỉ có ở đàn ông:

“ Ra đường bác mẹ dặn rằng

Làm thân con gái chớ ăn trầu người”

Thế mà, kinh khủng chưa, trong bài thơ này, người mời trầu lại là nữ giới, chẳng thèm che mạng cúi đầu. Cái lớn của bài thơ đã nằm ngay ở tư thế của chủ thể trữ tình rồi! Tinh thần phá vỡ định kiến “thâm căn cố đế ” đã nằm ngay ở cách đặt tựa đề và đề tài rồi!

Tuy nhiên, tiếng nói có sức mạnh phá vỡ ấy lại không hề “đao to búa lớn ”. Nó nhỏ nhẹ, ân cần, nồng nhiệt mà da diết, lắng sâu. Nó là một âm sắc trầm ấm của tiếng thơ táo bạo Hồ Xuân Hương.

Chúng ta thử xem nhà thơ mời trầu như thế nào:

“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi ”

Chẳng cần một buồng cau trả ơn, chẳng màng trầu têm cánh phượng dâng mời hoàng tử, người phụ nữ chỉ có “quả cau nho nhỏ ”. Hẳn là ở đây, Xuân Hương đã hái một quả từ buồng cau dân gian rồi: “Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân”,… Từ láy “nho nhỏ “ còn gợi một ảnh hình xinh xắn, dễ thương. Quả cau nhỏ, chắc hẳn bổ ra thành những miếng cau thanh. Đâu cần nhiều, bởi Xuân Hương đâu phải mời bọn phàm phu, tục tử. Lại kèm với quả cau là “miếng trầu hôi ”. Đâu rồi trầu quế, trầu thơm? Cớ sao lại chọn miếng trầu tầm thường, chẳng thơm, chẳng ngon mấy để mời? Có lẽ cũng chẳng phải là chọn, vì người phụ nữ có chi mời nấy, cốt yếu là mời bằng tấm lòng thành thực, với những cái vốn có của mình. Vả lại, người sâu sắc đâu dại gì đem cái sang trọng, đắt tiền để mời tình. Kẻ vụ lợi sẽ bị cái hào nhoáng, sang cả làm mờ mắt đi, cứ thế mà nhảy bổ vào cuộc tình. Tác giả của miếng trầu hôi, cũng như chủ thể trữ tình trong bài thơ, là phụ nữ từng trải, sâu sắc, nên thành ý ấy, dụng ý ấy, không chắc là không có.

Miếng trầu mời thật dân dã, tự nhiên, gợi cảm, chân thành, nhưng cách mời mới thật nồng nhiệt làm sao:

“Này của Xuân Hương mới quệt rồi ”

Xã hội phong kiến đâu chấp nhận “cái tôi ” với lời xưng trực tiếp như vậy. Thế mà, người phụ nữ ở đây lại dám tin vào chính mình, tự thừa nhận tấm tình của riêng cá nhân mình. Đã vậy, trầu vừa quệt là mời ngay. Hành động “mới quệt ” hết sức khiêm tốn và chân thành. Miếng trầu có thể không khéo léo cách têm nhưng là cả sự nồng hậu, chào mời. Người phụ nữ mang tên hương – mùa – xuân quả thật hết sức khát khao nghĩa tình giữa con người với nhau trong cuộc sống. Tấm lòng ấy đã chủ động trao tặng cho người sự chân thành, thắm thiết.

Nếu như hai câu trên, giọng thơ thật chân thành, nồng nhiệt, vồn vã, đầy khát khao thì ở hai câu sau, giọng thơ lại chuyển sang trầm lắng, đầy trăn trở, ưu tư:

“Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi ”

Hai câu thơ đầy màu sắc, đó là “xanh” của lá, “bạc” của vôi, pha trộn lại thì bạc và xanh đã hóa thành “thắm” rồi. “Thắm” là màu đỏ tươi của miếng trầu, mà cũng là thắm thiết, thắm tình – sắc màu của sự gắn bó, hòa hợp, chung tình. Nhà thơ đã khai thác tài tình ý nghĩa tượng trưng của màu sắc. Cái lá trầu và ít vôi, ăn chung với nhau thì sắc thắm, “thắm lại ”. Nhưng tách riêng thì chỉ còn rời rã một màu xanh non nớt, lạnh lùng, chỉ còn màu bạc của sự bạc bẽo, bội bạc, hai lòng. Buồn thay cho sự chia lìa, bội bạc! Niềm khao khát ở đây sao mà ưu tư và buồn thấm thía. Đã vậy, những từ ngữ “có phải… thì… đừng … như…” chẳng khác con dao bổ cau, cứa vào lòng, cứa vào trái tim vốn quen đập với nhịp chân thật, chung tình. Nghệ thuật so sánh cuối bài thơ được hái từ giàn trầu thành ngữ Việt Nam: “xanh như lá, bạc như vôi ”. Ý thơ gợi ra một khát vọng đầy ưu tư, khắc khoải của một tâm hồn đã ít nhiều nếm trải dư vị chua chát, đắng cay của sự lạnh lùng, giả dối. Ngẫm lại cuộc đời, tâm sự của Hồ Xuân Hương, sao thấy bài thơ như là thân phận, số phận – đầy éo le, dở dang, trăn trở. Biết bao giờ, biết ai người sẽ “phải duyên nhau ”.

Cả bài thơ chính là một thông điệp gói trọn tâm tình, khát khao nồng thắm của một phụ nữ đa tài, tấm lòng rộng mở và muốn được vẹn tình. Tâm tình ấy, khát vọng ấy đã vang lên, trong trẻo và mạnh mẽ, mạnh dạn phá bỏ những định kiến tàn nhẫn, u ám của thời đại. Đó là tín hiệu đẹp cho sự đâm chồi, nảy tược của một ý thức cá nhân, của tinh thần đấu tranh đòi hạnh phúc cho người phụ nữ. Chắc rằng, tiếng vọng mời trầu của Hồ Xuân Hương đã băng qua thời gian, lay chuyển biết bao tâm hồn xanh xao, bạc bẽo tìm đến với nhau trong một tình yêu chân thật, hòa hợp, chung tình.

(Nguồn: sưu tầm)


Bình chọn:
4.9 trên 7 phiếu

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Văn 8 - Cánh diều - Xem ngay

Tham Gia Group Dành Cho 2K10 Chia Sẻ, Trao Đổi Tài Liệu Miễn Phí