Thời kỳ 1945 - 1969 : Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện


Mới giành được chính quyền chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã quay lại xâm lược nước ta. Ngày 23-9- 1945, chúng núp sau quân đội Anh gây hấn ở Nam Bộ, ở miền Bắc hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào hòng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, bóp chết nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.

Thời kỳ 1945 - 1969 : Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện

Mới giành được chính quyền chưa được bao lâu thì thực dân Pháp đã quay lại xâm lược nước ta. Ngày 23-9- 1945, chúng núp sau quân đội Anh gây hấn ở Nam Bộ, ở miền Bắc hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào hòng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, bóp chết nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Đứng trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc" của dân tộc, Hồ Chí Minh đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở, tới bờ bến thắng lợi. Về đối nội Người chủ trương củng cố chính quyền non trẻ, đẩy lùi giặc đói, giặc dốt, khắc phục nạn tài chính thiếu hụt, về đối ngoại. Người vận dụng sách lược khôn khéo, mềm dẻo thêm bạn, bớt thù "dĩ bất biến, ứng vạn biến", tranh thủ thời gian để chuẩn bị thế và lực cho kháng chiến lâu dài. Chính nhờ đó, ngày 19-12-1946 với tư thế sẵn sàng và lòng tin sắt đá vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ những nhất định thắng lợi.

Hồ Chí Minh đã phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp. Từ đây, Người là linh hồn của cuộc kháng chiến, đề ra đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Người đặc biệt chăm lo xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đấu tranh chống tệ quan liêu, mệnh lệnh, xây dựng đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phát động phong trào thi đua ái quốc.

Năm 1951, do yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đưa Đảng, ra hoạt động công khai với tên Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội đã chủ trương thành lập đảng riêng ở Lào và Campuchia, kịp thời lãnh đạo các nhiệm vụ cách mạng ở mỗi nước. Đại hội cùng thông qua Cương lĩnh và Điều lệ mới của Đảng, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, nhằm động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ thắng lợi hoàn toàn.

Năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi.

Đó là thắng lợi của sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường lối chiên tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, bảo vệ thành quả của Cách mạng Tháng Tám ; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chi Minh vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, kết hợp chặt chẽ và đúng đắn giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, vận dụng sáng tạo nguyên lý chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, kế tục và phát triển kinh nghiệm chống xâm lược lâu đời của cha ông, kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng lực lượng cách mạng với công tác xây dựng Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên mọi mặt của cuộc kháng chiến, vừa xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, vừa gây dựng mầm mống cho chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam.

Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước vẫn bị chia cắt bởi âm mưu gây chiến, xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

Đứng trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng đã sớm xác định kẻ thù chính của nhân dân Việt Nam, đề ra cho mỗi miền Nam, Bắc Việt Nam một nhiệm vụ chiến lược khác nhau, xếp cách mạng miền Bắc vào phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, còn cách mạng miền Nam thuộc phạm trù cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ; cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà, còn cách mạng miền Nam giữ vị trí quan trọng có tác dụng quyết định trực tiếp nhất đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thực hiện hòa bình, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Xuất phát từ thực tiễn, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhiều vấn đề đã tiếp tục được bổ sung và phát triển, hợp thành một hệ thống những quan điểm lý luận về cách mạng Việt Nam. Đó là : tư tưởng về chủ nghĩa xã hội, và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ; tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân ; tư tưởng và chiến lược về con người ; tư tưởng về Đảng Cộng sản và xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, V.V..

 


Bình chọn:
3.1 trên 10 phiếu
  • Thời kỳ 1930 - 1945 : Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách mạng

    Vào cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Quốc tế Cộng sản bị chi phối nặng bởi khuynh hướng "tả". Khuynh hướng này đã trực tiếp tác động vào phong trào cách mạng Việt Nam. Biểu hiện rõ nhất là những quyết định được đưa ra trong Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc) theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản

  • Thời kỳ 1921 - 1930 : Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam

    Trong giai đoạn từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận hết sức phong phú, sôi nổi trên địa bàn nước Pháp (1921-1923), Liên Xô (1923-1924), Trung Quốc (1924-1927), Thái Lan (1928- 1929). Trong khoảng thời gian này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản.

  • Thời kỳ 1911 - 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc

    Việc Hồ Chí Minh ra nước ngoài xuất phát tứ ý thức dân tộc, từ hoài bão cứu nước. Qua cuộc hành trình đến nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc, tư bản, đế quốc. Người đã xúc động trước cảnh khổ cực, bị áp bức của những người dân lao động. Người nhận thấy ở đâu nhân dân cũng mong muốn thoát khỏi ách áp bức bóc lột.

  • Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước

    Hồ Chi Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất Thành) sinh ngày 19-5-1890. trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân dân. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Người, là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc.