Phân tích hai khu vực của nền sản xuất xã hội?


Xuất phát từ tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, C. Mác coi hai mặt giá trị và hiện vật của tổng sản phẩm xã hội là hai tiền đề lý luận quan trọng để nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội.

Xuất phát từ tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, C. Mác coi hai mặt giá trị và hiện vật của tổng sản phẩm xã hội là hai tiền đề lý luận quan trọng để nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội. Là hiện vật, tổng sản phẩm xã hội được C. Mác phân chia thành hai loại: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, do đó nền sản xuất xã hội được chia thành hai khu vực:

Khu vực I: Sản xuất tư liệu sản xuất.

Khu vực II: Sản xuất tư liệu tiêu dùng.

Mỗi khu vực đó lại bao gồm rất nhiều ngành và số lượng những ngành này ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội.

Trên thực tế, ranh giới giữa khu vực I và khu vực II không phải lúc nào cùng rõ ràng. Có thể một số ngành vừa thuộc khu vực I, vừa thuộc khu vực II, than vừa sản xuất ra để luyện thép vừa sản xuất để làm chất đốt cho tiêu dùng hàng ngày của nhân dân; hay là ngành nông nghiệp, xét về mặt sản xuất ra lúa, gạo, thịt, sữa, v.v. trực tiếp phục vụ cho tiêu dùng của con người thì nó thuộc khu vực II, nhưng nếu xét về mặt sản xuất ra nguyên liệu, phục vụ cho công nghiệp chế biến, thì nó lại thuộc khu vực I.

Mỗi khu vực sản xuất xã hội trên đây còn có thể được chia thành các ngành nhỏ.

Khu vực I có thể chia thành 2 nhóm:

+ Các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra tư liệu sản xuất.

+ Các ngành sản xuất ra tư liệu sân xuất để sản xuất ra tư liệu tiêu dùng.

Khu vực II có thể chia thành 2 nhóm:

+ Các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng cần thiết.

+ Các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng xa xỉ.

Hiện nay hoạt động dịch vụ đang có những đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế. Mặc dù hoạt động dịch vụ vô cùng phong phú, đa dạng nhưng chúng cũng hoặc là dịch vụ cho sản xuất hoặc dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân. Nếu là dịch vụ cho sản xuất thì nó thuộc khu vực I, nếu là dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân thì nó thuộc khu vực II.

Như vậy, trong điều kiện hiện đại, quy mô và hình thức biểu hiện của mỗi khu vực trong sơ đồ của C. Mác đã được mở rộng, trở nên phong phú, đa dạng và việc phân chia sản xuất xã hội thành hai khu vực vẫn đúng, vẫn là cơ sở để phân tích tái sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Loigiaihay.com


Bình chọn:
3.7 trên 3 phiếu
  • Phân tích hậu quả của khủng hoảng kinh tế?

    Khủng hoảng kinh tế nổ ra làm cho năng lực sản xuất của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bị phá hoại dữ dội; hàng lọat xí nghiệp bị đóng cửa, quy mô sản xuất bị thu hẹp, nhiều ngân hàng không hoạt động, thị trường chứng khoán bị rối loạn, giá cổ phiếu hạ thấp.

  • Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là gì?

    - Để tạo ra giá trị hàng hoá phải bao gồm cả lao động quá khứ và lao động hiện tại. Lao động quá khứ (lao dộng vật hoá), tức là giá trị của tư liệu sản xuất (c); lao động hiện tại (lao động sống) tức là lao động tạo ra giá trị mới (v + m).

  • Những nhân tố quyết định quy mô tích luỹ tư bản?

    - Quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa diễn ra liên tục, do đó quy mô tích lũy tư bản cũng không ngừng tăng lên. Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản phải được chia làm hai trường hợp

  • Phân tích bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thể hiện qua tích lũy tư bản?

    Việc nghiên cứu tích luỹ tư bản chủ nghĩa rút ra những kết luận vạch rõ bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: - Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản.

  • Phân tích thực chất và động cơ của tích lũy tư bản?

    Tái sản xuất nói chung được hiểu là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại và tiếp diễn một cách liên tục không ngừng. Căn cứ vào quy mô, có thể chia tái sản xuất thành hai loại: tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

>> Xem thêm